Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,đại diện cho ý chí,nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương,do nhân dân bầu ra,chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 119 Hiến pháp năm 1992).Đây là một hình thức tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới.Nó không phải là cơ quan đại diện ,tư vấn bên cạnh cơ quan hành chính hay là cơ quan "tự quản" như trong các chính quyền địa phương kiểu Phong kiến trước đây và một số nước Tư bản hiện nay mà là cơ qua đại diện quyền lực nhà nước của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ địa phương; thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến Pháp và pháp luật đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động,sáng tạo của địa phương.
Để thực hiện những nhiệm vụ,quyền hạn và chức năng ấy,hội đồng nhân dân(HĐND) có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và hoạt động của nó.Tổ chức và hoạt động của HĐND hiện hành được ghi nhận trong hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001) chương IX (từ điều 118 đến điều 125 trừ điều 124) và được cụ thể hóa trong luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) 2003.
Ngoài ra việc tổ chức HĐND còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như :
- Nghị quyết số 26/2008/NQ-QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường;
- Nghị quyết số 724/2009/NQ-UBTVQH12 ngày 16/01/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về danh sách huyện, quận, phường của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường;
- Nghị quyết điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của UBND huyện, quận, phường nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phường số 725/2009 /NQ-UBTVQH12 .
Trong phạm vi bài tiểu luận ngắn với đề tài tìm hiểu về “tổ chức và hoạt động của HĐND theo pháp luật hiện hành”, bài viết sẽ tập trung vào các quy định tại Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và luật tổ chức HĐND 2003.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2933 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,đại diện cho ý chí,nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương,do nhân dân bầu ra,chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên (Điều 119 Hiến pháp năm 1992).Đây là một hình thức tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới.Nó không phải là cơ quan đại diện ,tư vấn bên cạnh cơ quan hành chính hay là cơ quan "tự quản" như trong các chính quyền địa phương kiểu Phong kiến trước đây và một số nước Tư bản hiện nay mà là cơ qua đại diện quyền lực nhà nước của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ địa phương; thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến Pháp và pháp luật đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động,sáng tạo của địa phương.
Để thực hiện những nhiệm vụ,quyền hạn và chức năng ấy,hội đồng nhân dân(HĐND) có một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và hoạt động của nó.Tổ chức và hoạt động của HĐND hiện hành được ghi nhận trong hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001) chương IX (từ điều 118 đến điều 125 trừ điều 124) và được cụ thể hóa trong luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) 2003.
Ngoài ra việc tổ chức HĐND còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như :
- Nghị quyết số 26/2008/NQ-QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường;
- Nghị quyết số 724/2009/NQ-UBTVQH12 ngày 16/01/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về danh sách huyện, quận, phường của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường;
- Nghị quyết điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của UBND huyện, quận, phường nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phường số 725/2009 /NQ-UBTVQH12…..
Trong phạm vi bài tiểu luận ngắn với đề tài tìm hiểu về “tổ chức và hoạt động của HĐND theo pháp luật hiện hành”, bài viết sẽ tập trung vào các quy định tại Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 và luật tổ chức HĐND 2003.
I.CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Để hiệu quả hoạt động của HĐND được đảm bảo, thực thi các chức năng quyền hạn của mình, HĐND cần có các bộ phận giúp việc. Với ý nghĩa đó pháp luật đã ghi nhận và quy định cơ cấu tổ chức của HĐND. Mỗi bộ phận cấu thành của HĐND: Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại biểu HĐND có vị trí nhất định.
1.Thường trực hội đồng nhân dân
Thường trực HĐND là cơ quan mới được thành lập từ khi có luật tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân(UBND) 6/1989.Để phù hợp với hiến pháp 1992 cũng như phù hợp với thời đại,luật tổ chức HĐND và UBND có nhiều lần sửa đổi bổ sung,kế thừa,thay thế.Luật tổ chức HĐND và UBND Ngày 26 Tháng 11 năm 2003(gọi tắt là Luật tổ chức HĐND và UBND)quy định tổ chức Thường trực HĐND ở tất cả các cấp(Điều 5).
Theo Điều 52 luật tổ chức HĐND và UBND"Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Uỷ viên thường trực. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp."
Thường trực Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra(theo Điều 52 luật tổ chức HĐND và UBND ).Tại kì họp đầu tiên của mỗi khóa HĐND,thường trực được chọn bầu ra trong số đại biểu theo thể thức : bầu chủ tịch HĐND theo sự theo sự giới thiệu của chủ tọa kì họp.Chủ tọa kỳ họp này là chủ tịch HĐND khóa trước nếu khuyết thì do phó chủ tịch và nếu khuyết cả hai thì là triệu tập viên do thường trực HĐND cấp trên chỉ huy.Bầu phó chủ tịch và Ủy viên thường trực theo sự giới thiệu của chủ tịch.Đại biểu HĐND cũng có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ đó(theo Điều 49,51 luật tổ chức HĐND và UBND).Kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân phải được Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn(Theo Điều 52 luật tổ chức HĐND và UBND).Trong khi chờ phê chuẩn,những người được bầu giữ các chức vụ trên được thực hiện ngay nhiệm vụ,quyền hạn của mình(khoản 3 Điều 51 luật tổ chức HĐND và UBND).
Nhiệm kì của Thường trực HĐND theo nhiệm kì của HĐND là 5 năm,thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp(theo Điều 52).Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 còn quy định Chủ tịch HĐND,Chủ tịch UBND ở mỗi đơn vị hành chính không giữ chức vụ đó quá hai nhiệm kỳ liên tục(khoản 3 Điều 6).
Thường trực HĐND có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
Đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương;
Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của Hội đồng nhân dân; xem xét kết quả giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân khi cần thiết và báo cáo Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất; giữ mối liên hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân để báo cáo Hội đồng nhân dân;
Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
Phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;
Phối hợp với Uỷ ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cùng cấp lên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp mình lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ;
Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; mỗi năm hai lần thông báo cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Thường trực HĐND làm việc theo nguyên tắc tập thể.Mỗi tháng thường trực HĐND họp ít nhất một lần để kiểm điểm việc thực hiện các nghị quyết của HĐND và các quyết định của mình,đề ra nhiệm vụ công tác tháng sau.Thương trực HĐND cũng có thể họp bất thường theo đề nghị của từng thành viên thường trực HĐND.
2.Các ban của HĐND
Các Ban của HĐND được lập ra để giúp HĐND hoạt động.Theo quy định của pháp luật hiện hành HĐNDcấp tỉnh thành lập ba Ban: Ban kinh tế và ngân sách, Ban văn hoá - xã hội, Ban pháp chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban dân tộc.HĐNDcấp huyện thành lập hai Ban: Ban kinh tế - xã hội; Ban pháp chế(Điều 54 luật tổ chức HĐND và UBND).
Các ban của HĐND được thành lập tại kì họp thứ nhất của mỗi khoá HĐND.Số lượng thành viên của mỗi Ban do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và bầu chọn trong số đại biểu có năng lực,kiến thức chuyên môn,phù hợp với nhiệm vụ của ban,có điều kiện thực tế tham gia các hoạt động của ban.
Trưởng ban và các thành viên của Ban do HĐND bầu bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách từng Ban do Chủ tịch HĐND giới thiệu.Các đại biểu cũng có quyền giwois thiệu và ứng cử vào các cức vụ trên.Phó ban do Ban bầu ra.
Thành viên của các Ban của HĐND không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp.Trưởng Ban của HĐND không thể đồng thời là Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp.
Nhiệm vụ,quyền hạn của Ban(Điều 55 luật tổ chức HĐND và UBND) gồm:
Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công;
Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Trong khi thi hành nhiệm vụ, các Ban của Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của các Ban của Hội đồng nhân dân;
Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực Hội đồng nhân dân khi cần thiết.
Quy chế tổ chức và hoạt động của HĐND đã cụ thể hóa những nhiệm vụ,quyền hạn của từng ban.
II. HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Hoạt động của hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành được thể hiện thông qua chính các hình thức hoạt động của HĐND : kì họp của HĐND và các hoạt động của các bộ phận hợp thành như Thường trực HĐND, các ban của HĐND, đại biểu HĐND.Ở một khía canh khác các hình thức hoạt động của HĐND thực hiện sự phân công , phân nhiệm chức năng, nhiêm vụ, quyền hạn của HĐND do các cơ cấu của nó – là bộ phận cấu thành của HĐND. Hiệu quả hoạt động của HĐND được đảm bảo bằng hiệu quả của các bộ phận này. Với ý nghĩa đó pháp luật phải ghi nhận các hình thức hoạt động của HĐND và phân định nhiêm vụ, quyền hạn của các bộ phận đó. Mỗi hình thức hoạt động của HĐND có vị trí nhất định.
1.Kì họp hội đồng nhân dân
Kì họp là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của HĐND.Đó là kì họp định kì gồm các phiên họp của toàn thể(đa số) các Đại biểu HĐND để bàn bạc,quyết định những vấn đề của địa phương được nêu trong chương trình nghị sự.Thông qua kì họp,ý chí,nguyện vọng của nhân dân địa phương được đem ra thảo luận và được chuyển thành quyết định của cơ quan nhà nước ở địa phương,có ý nghĩa bắt buộc chung.Tại kì họp còn quyết định các biện pháp để thi hành quyết định,chỉ thị,pháp luật của nhà nước ở địa phương,thực hiện quyền giám sát việc thực hiện nghị quyết và hoạt đọng của các cơ quan trực thuộc HĐND và các cơ quan nhà nước,tổ chức xã hội khác ở địa phương.
Theo quy định tại điều 48 luật tổ chức HĐND và UBND Hội đồng nhân dân các cấp họp thường lệ mỗi năm hai kỳ(trước đây quy định ba tháng họp một kì,ở miền núi nơi nào đi lại khó khăn thì HĐND tỉnh,huyện họp 6 tháng một lần ). Ngoài kỳ họp thường lệ, Hội đồng nhân dân tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân,Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp yêu cầu
Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định triệu tập kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân chậm nhất là hai mươi ngày, kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường chậm nhất là mười ngày trước ngày khai mạc kỳ họp;Hội đồng nhân dân họp công khai. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định họp kín theo đề nghị của Chủ tọa cuộc họp hoặc của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp.Ngày họp, nơi họp và chương trình của kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp.
Kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia.
Đại biểu Quốc hội,Đại biểu HĐND cấp trên được bầu ở địa phương,chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương và đại diện cử tri được mời tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân, được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết.
Tài liệu cần thiết của kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được gửi đến đại biểu Hội đồng nhân dân chậm nhất là năm ngày trước ngày khai mạc kì họp.
Về nguyên tắc,tất cả nhiệm vụ,quyền hạn của HĐND sẽ được HĐND thảo luận và quyết định tại kì họp.Kì họp có thể quyết định bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.Tuy nhiên không phải bất cứ vấn đề gì cũng đem ra kì họp xem xét,giải quyết và không cần thiết phải như vậy.HĐND có thể phân giao cho các cơ cấu của nó,như thường trực HĐND,các ban của HĐND và UBND giải quyết trong khuôn khổ pháp luật.UBND phối hợp với Thường trực HĐND và các ban của HĐNDxây dựng đề án trình HĐND xem xét,quyết định(trước đây khi chưa thành lập Thường trực HĐND thì tất cả các chức năng thường vụ,thường trực trong hoạt động của HĐND đều do UBND đảm nhiệm).
Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND có ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì tại kì họp này HĐND sẽ tiến hành bầu Ban thẩm tra tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của Chủ tọa kỳ họp.Căn cứ báo cáo của Ban thẩm tra tư cách đại biểu, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết xác nhận tư cách các đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc tuyên bố việc bầu đại biểu nào đó là không có giá trị,bầu Thường trực HĐND ,các Ban của HĐND và UBND cùng cấp.Điều 49 luật tổ chức HĐND và UBND quy định:"Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân được triệu tập chậm nhất là ba mươi ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Ở miền núi, nơi nào đi lại khó khăn, thì kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân tỉnh được triệu tập chậm nhất là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;Kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá trước triệu tập và chủ tọa cho đến khi Hội đồng nhân dân bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá mới;Trong trường hợp khuyết Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân triệu tập kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới. Nếu khuyết cả Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp chỉ định triệu tập viên để triệu tập và chủ tọa kỳ họp cho đến khi Hội đồng nhân dân bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân; ở cấp tỉnh thì do Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ định triệu tập viên".
Kì họp đầu năm HĐND tập trung thảo luận và quyết định kế hoạch và dự toán ngân sách,quyết định chương trình hoạt động trong năm,quyết ddingj các vấn đè thiết thực vầ kinh tế,văn hóa,giáo dục,quốc phòng...của địa phương.Trong kì họp cuối năm,HĐND nghe và thảo luận các báo cáo,kiểm điểm của công tác của Thường trực HĐND,UBND,Chánh án Tòa án nhân dân,viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân,các nghành kinh tế-xã hội.v.v...Ở địa phương.Có thể có một kì họp tập trung vào một chuyên đề cụ thể nào đó như về quản lí đất đai,bảo đảm trật tự trị an trên địa bàn.
Trong kì họp cuối nhiệm kỳ,HĐND,Thường trực HĐND và UBND kiểm điểm nhiệm kỳ và hoạt động của mình.
Chủ tọa các kì họp do Thường trực HĐND đảm nhiệm (ngoại trừ kỳ họp thứ nhất như đã nêu ở trên).Chủ tọa kì họp có nhiệm vụ điều khiển các phiên họp theo chương trình đã được HĐND thông qua,tổ chứcthảo luận,lấy biểu quyết và các vấn đề đã nêu ra,xem xét lại các nghị quyết và biên bản trước khi chủ tịch HĐND ký chứng thực.
Khi nhắc tới hoạt động tại kì họp của HĐND ta không thể không nhắc tới hoạt động chất vấn.Chất vấn là hình thức quan trọng qua đó HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan thuộc HĐND và các cơ quan,tổ chức khác trên phạm vi địa phương.Đại biểu HĐND có quyền chất vấn bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền xem xét của HĐND.Chất vấn không phải là một hoạt động thông thường mà là một đòi hỏi làm rõ về một hay nhiều sự việc có "vấn đề",tức là các biểu hiện của sự không thi hành hoặc thi hành không đúng các Nghị quyết của HĐND và của cấp trên hướng dẫn,có biểu hiện vi phạm pháp luật mà Đại biểu thấy có cơ sở vững chắc.Nếu vấn đề của Đại biểu nêu ra,được HĐND tán đồng(được chấp nhận thì được coi như là một vấn đề của chương trình nghị sự.
Chất vấn có thể bằng miệng hoặc viết tay,có thể một hoặc nhiều Đại biểu cùng tham gia chất vấn.Thủ trưởng các cơ quan hoặc cá nhân bị chất vấn phải nghiêm túc trả lời ngay tại kì họp.Trường hợp cần điều tra,HĐND quyết định cho trả lời tại kì họp.Nếu Đại biểu chưa thpar mãn với nội dung trả lời cps thể đầ nghị HĐND thảo luận.Khi cần thiêt,HĐND ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của cơ quan nhà nước hoặc người bị chất vấn.
Kết quả của các kỳ họp là HĐND thông qua các quyết định của mình dưới hình thức các nghị quyết. Nghị quyết của HĐND được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu HĐND tán thành.Đối với việc bãi nhiệm Đại biểu phải có 2/3 tổng số Đại biểu tán thành.Riêng nghị quyết về việc bầu cử,miễn nhiệm và bãi nhiệm UBND,Nghị quyết giải tán HĐND cấp dưới trực tiếp và một số nghị quyết khác còn phải được sự phê chuẩn của cấp trên(Chủ tịch UBND hoặc Thường trực HĐND đối với cấp tỉnh là UBTVQH và Thủ tướng) mới được thi hành.
Ngoài ra HĐND còn ra nghị quyết để thông qua,ban hành các văn bản pháp quy đại phương như nội quy kỳ họp HĐND,quy chế xây dựng làng văn hóa...
Nghị quyết của HĐND có hiệu lực ngay sau khi được thông qua hoặc sau khi được các cơ quan nhà nước cấp trên phê chuẩn.Có những nghị quyết ghi rõ thời gian thi hành.
2.Hoạt động của thường trực HĐND và các Ban của HĐND.
Mỗi cơ cấu này thực hiện 1 phần chức năng,nhiệm vụ được quy định chung cho cấp HĐND đó.Hoạt động của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND chính là việc thực thi nhiệm vụ và quyền hạn mà nó được HĐND giao.Những nhiệm vụ ,chức năng này đã được nêu ở phần trên.
3.Hoạt động của đại biểu HĐND
Xét về mặt cơ cấu tổ chức thì đại biểu HĐND không phải là một cơ cấu riêng biệt của HĐND vì HĐND là một cơ quan hoạt động tập thể có hoạt động chủ yếu là kì họp mà ở đó tất cả các đại biểu đều tham dự và bàn định những vấn đề thuộc nhiệm vụ,quyền hạn của HĐND.Một số hoạt động của đại biểu(cùng với tổ chức đại biểu ) tại đơn vị bầu cử cũng mang tính phụ trợ là phương thức liên hệ với cử tri,thu thập ý kiến của họ rồi báo cáo hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết.Nhưng hoạt động của Đại biểu trong chừng mực nhất định cũng có tính độc lập.Đó là một hình thức đảm bảo hiệu quả của hoạt động của HĐND..
Theo quy định của pháp luật,hoạt động của Đại biểu tập trung trên hai mặt:
Một là hoạt động của đại biểu tại kì họp và trong các cơ cấu của HĐND.Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân,các sinh hoạt của tổ Đại biểu,hoàn thành các nhiệm vụ được giao.Trong kì họp,Đại biểu HĐND có quyền đề nghị ghi vào chương trình nghị sự những vấn đề mà Đại biểu xét thấy cần thiết để HĐND xem xét và quyết định: thảo luận,phát biểu ở tổ và tại hội trường;biểu quyết các nghị quyết và kết luận của kì họp.Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp(Điều 41 luật tổ chức HĐND và UBND, Điều 112 Hiến pháp).Đại biểu HĐND có quyền tham dự các phiên họp của HĐND cấp dưới trực tếp ở nơi bầu ra mình,có quyền phát biểu nhưng không biểu quyết ( theo Điều 48 luật tổ chức HĐND và UBND).
Nếu là thành viên của các cơ cấu của HĐND thì đại biểu có trách nhiệm tham gia đầy đủ các hoạt động của cơ qua đó,hoàn thành nhiệm vụ được phân công.
Hai là,Hoạt động của Đại biểu tại đơn vị bầu cử.
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước.
Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tr