Đề tài Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào

Tuy là đất nước của miền đất bị thất lạc cuối cùng ở Đông Nam Á nhưng Lào lại được biết đến như một quốc gia với nền văn hóa phong phú, đa dạng, nơi tập trung và hội tụ của những nét đẹp văn hóa nhưng ẩn chứa trong nó vẫn là những đặc trưng văn hóa rất riêng, vô cùng đặc sắc và mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống. Trên nền văn hóa ấy, văn hóa ẩm thực đã góp phần tạo nên một nền văn hóa Lào với những đặc trưng riêng biệt, có sự tương đồng nhưng không bị hòa lẫn với các nền văn hóa khác trong khu vực. Trong kho tàng văn hóa ẩm thực của thế giới, Lào được biết đến là đất nước của nhiều món ăn ngon, từ những món ăn dân giã trong đời thường đến những món ăn cầu kỳ để phục vụ cho ngày Tết và lễ hội đều mang những nét tinh túy của linh hồn đất nước Triệu Voi. Tới với đất nước Lào chúng ta sẽ được cùng nhau thưởng thức vị thơm dẻo của cơm lam, xôi nếp; vị cay, ngọt rất hấp dẫn của món lạp; của thịt nướng; một chút nồng, tanh của món tép nhảy lẫn với vị cay của ớt và cùng nhau ngây ngất trong hơi men của rượu hay sảng khoái khi được thưởng thức một cốc nước dừa mát lạnh. Tất cả đã tạo nên một hương vị rất riêng, rất Lào. Và hơn hết, đó không chỉ còn là ẩm thực mà nó còn là cả một kho tàng văn hóa lâu đời của đất nước tươi đẹp này. “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào” để qua đó chúng ta thấy được cái hay, cái đẹp và hơn hết là thấy được những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Lào nói riêng và văn hóa đất nước Lào nói chung. Trong đề tài này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu những món ăn, đồ uống trong văn hóa ẩm thực của người Lào để hiểu sâu hơn những giá trị văn hóa tiềm ẩn bên trong đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của con người nơi đây.

doc44 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6311 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI BÁO CÁO Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tuy là đất nước của miền đất bị thất lạc cuối cùng ở Đông Nam Á nhưng Lào lại được biết đến như một quốc gia với nền văn hóa phong phú, đa dạng, nơi tập trung và hội tụ của những nét đẹp văn hóa nhưng ẩn chứa trong nó vẫn là những đặc trưng văn hóa rất riêng, vô cùng đặc sắc và mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống. Trên nền văn hóa ấy, văn hóa ẩm thực đã góp phần tạo nên một nền văn hóa Lào với những đặc trưng riêng biệt, có sự tương đồng nhưng không bị hòa lẫn với các nền văn hóa khác trong khu vực. Trong kho tàng văn hóa ẩm thực của thế giới, Lào được biết đến là đất nước của nhiều món ăn ngon, từ những món ăn dân giã trong đời thường đến những món ăn cầu kỳ để phục vụ cho ngày Tết và lễ hội đều mang những nét tinh túy của linh hồn đất nước Triệu Voi. Tới với đất nước Lào chúng ta sẽ được cùng nhau thưởng thức vị thơm dẻo của cơm lam, xôi nếp; vị cay, ngọt rất hấp dẫn của món lạp; của thịt nướng; một chút nồng, tanh của món tép nhảy lẫn với vị cay của ớt và cùng nhau ngây ngất trong hơi men của rượu hay sảng khoái khi được thưởng thức một cốc nước dừa mát lạnh... Tất cả đã tạo nên một hương vị rất riêng, rất Lào. Và hơn hết, đó không chỉ còn là ẩm thực mà nó còn là cả một kho tàng văn hóa lâu đời của đất nước tươi đẹp này. “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào” để qua đó chúng ta thấy được cái hay, cái đẹp và hơn hết là thấy được những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Lào nói riêng và văn hóa đất nước Lào nói chung. Trong đề tài này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu những món ăn, đồ uống trong văn hóa ẩm thực của người Lào để hiểu sâu hơn những giá trị văn hóa tiềm ẩn bên trong đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của con người nơi đây. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đất nước, con người, văn hóa Lào với những nét riêng biệt luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhất là các nhà nghiên cứu văn hóa với những khía cạnh khai thác khác nhau, từ phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối sống, cách ứng xử… tới những thói quen trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày hay chỉ là những món ăn tiêu biểu. Cuốn sách “Lào, Đất nước – con người” của tác giả Hoài Nguyên đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết nhất định về lịch sử đấu tranh cũng như quá trình dựng nước, giữ nước và xây dựng một nền văn hóa Lào phong phú, đa dạng nhưng hết sức gần gũi. Cuốn sách cũng giúp người đọc được tiếp cận gần hơn, hiểu hơn những con người chân thật, hiền hòa của đất nước Triệu Voi này. Trong cuốn “Văn hóa Đông Nam Á” của tác giả Mai Ngọc Chừ có viết về cách ăn uống của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong đó có cách ăn uống của đất nước Lào. Tuy nhiên cuốn sách không đi nghiên cứu sâu về văn hoá ẩm thực của từng dân tộc cụ thể mà chỉ đi khai thác từng phương diện văn hoá khác nhau cho cả khu vực nhưng tác phẩm chính là một bức tranh cô đọng giúp người đọc có cái nhìn khá toàn diện về những nét tương đồng trong văn hoá của các nước. Tác giả Nguyễn Thị Hải Yến với cuốn sách “Lào – xứ sở Triệu Voi” đã cho người đọc một cái nhìn tổng quan, bao quát về đất nước Lào tươi đẹp với những thông tin đa dạng từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tính cách con người, tới các yếu tố văn hóa trong đó có ẩm thực Lào. Cuốn sách “Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Lào” của tác giả Tuyết Đào cũng đã giới thiệu tổng quan về đất nước, con người, về lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, của nền văn hóa Lào. Trên một số tạp chí cũng các bài viết đề cập tới nội dung liên quan như Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật với bài viết “Đông Nam Á và những dấu ấn văn hoá” cũng đã chỉ ra những nét độc đáo trong tổng thể văn hoá chung của các dân tộc Đông Nam Á từ thời xa xưa đê từ đó giúp ta thấy được sự phát triển cũng như đặc trưng văn hóa của các quốc gia theo tiến trình phát triển của lịch sử. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết trên các tạp chí, nhiều công trình nghiên cứu khác đã viết về văn hóa, trong đó có đề cập tới văn hóa ẩm thực Lào. Tuy nhiên, có một điểm chung là hầu hết các cuốn sách, các công trình nghiên cứu mới chỉ tập trung tìm hiểu, giới thiệu đất nước, văn hóa Lào một cách tổng quan, khái quát chứ chưa đi sâu nghiên cứu văn hóa Lào ở từng nội dung cụ thể, trong đó có cả ẩm thực. Với đề tài này, trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu về văn hóa ẩm thực Lào, chúng tôi sẽ lần lượt đi vào khảo sát những món ăn, thức uống cụ thể từ những món ăn đơn giản, thường ngày tới những món ăn sử dụng trong các dịp lễ Tết, để chỉ ra những nét đặc trưng trong văn hóa ẩm thực Lào. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu văn hóa ẩm thực và những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của người Lào. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này chúng tôi tìm hiểu những đặc trưng văn hóa ẩm thực của người Lào trong sinh hoạt thường ngày, các dịp lễ Tết… được biểu hiện rõ nét qua cách chế biến, trình bày và thưởng thức các món ăn. 4. Nội dung và mục đích nghiên cứu 4.1. Nội dung nghiên cứu Nhiệm vụ của người viết là đi tìm hiểu văn hóa ẩm thực của người Lào. 4.2. Mục đích nghiên cứu Với đề tài “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào” chúng tôi muốn giới thiệu tới người đọc về một đất nước với một nền văn hóa phong phú, đa dạng và hơn hết là giới thiệu về một đất nước với những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực, với những cái hay, cái đẹp rất riêng biệt, không thể hòa lẫn với bất cứ một quốc gia, một dân tộc nào khác. 5. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành đề tài “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào”, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thu thập tài liệu - Phương pháp thống kê – phân loại - Phương pháp phân tích – tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu. 6. Bố cục của đề tài Đề tài “Tìm hiểu văn hóa ẩm thực Lào”, ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung chính gồm hai chương: Chương 1: Văn hóa Lào và những nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực Chương 2: Ẩm thực Lào – một nét đặc trưng trong văn hóa của đất nước Triệu Voi. NỘI DUNG CHƯƠNG 1. VĂN HÓA LÀO VÀ NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC Đôi nét về đất nước và văn hóa Lào Đôi nét về đất nước Lào Lào là một quốc gia ở Đông Nam Á nằm sâu trong đất liền và được coi là nơi giao lưu của hai nền văn minh lớn: Ấn Độ-Trung Hoa. Địa thể đất Lào có nhiều núi non bao phủ bởi rừng xanh; đỉnh cao nhất là Phou Bia cao 2.817 m. Diện tích còn lại là bình nguyên và cao nguyên. Sông Mê Kông là con soonh lớn nhất, chảy dọc gần hết biên giới phía tây, giáp giới với Thái Lan, trong khi đó dãy Trường Sơn chạy dọc theo biên giới phía đông giáp với Việt Nam. Khí hậu trong khu vực là khí hậu nhiệt đới của khu vực gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, tiếp theo đó là mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Thủ đô và là thành phố lớn nhất của Lào là Viêng Chăn, các thành phố lớn khác: Louang Phrabang, Savannakhet và Pakse. Lào cũng là quốc gia có nhiều loài động vật quí hiếm trên thế giới sinh sống, nổi bật nhất là hổ, voi và bò tót khổng lồ. Mặc dù đã nỗ lực rất nhiều nhưng hiện nay Lào vẫn đang là một trong những nước chậm phát triển với bức tranh kinh tế ảm đạm, thu nhập bình quân đầu người thấp trên thế giới. Để khắc phục tình trạng này, chính phủ Lào đang đề ra các chính sách mới và kêu gọi sự hỗ trợ từ nước ngoài để Lào ngày càng phát triển hơn. Và để đưa đất nước đi lên thì sự góp sức của nhân dân chính là một nhân tố vô cùng quan trọng. Dân cư Lào với khoảng 5 triệu người bao gồm sáu bộ tộc hợp thành, họ đem nền văn hóa của mỗi bộ tộc hòa vào nền văn hóa chung, tạo nên sự đa dạng và phong phú, đặc sắc của bức tranh văn hóa Lào. Nhân dân Lào có tinh thần yêu nước, bao dung, luôn yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Yêu lao động, hòa bình, chính nghĩa, kiên quyết không khuất phục trong đấu tranh chống áp bức bóc lộc của nội ban cũng như nội phản. Khái quát về văn hóa Lào Bản sắc văn hóa của Lào là một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước gắn với văn hóa lúa nước và văn minh xóm làng. Điều này đã tạo nên cho nền văn hóa Lào bên cạnh những nét riêng của yếu tố bản địa thì vẫn mang hơi hướng chung với văn hóa của các nước trong khu vực, góp phần tạo ra bản sắc riêng với những đóng góp quan trọng trong kho tàng văn hóa của thế giới. Lào với tên gọi khác là đất nước Triệu Voi (Vạn tượng) nên họ rất quý trọng loài voi, với người Lào bạch tượng chính là biểu tượng cho vận may của con người và cả dân tộc Lào. Bên cạnh đó nền văn hóa Lào có nhiều điểm tương đồng với các nước láng giềng mà đặc biệt là Thái Lan với nền văn hóa Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư tưởng của người Lào, ảnh hưởng này được phản ánh trong nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật… tạo nên một dân tộc Lào rất riêng. Từ thế kỷ XIV Phật giáo đã trở thành quốc giáo với hơn 90% dân số theo Phật giáo tiểu thừa. Người dân Lào đã thấm nhuần trong mình những lời Phật dạy, một mực kính trọng các bậc tăng ni, những vị sư sãi trong chùa. Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa so với dân cao nhất thế giới. Chùa gắn liền với trường học, gắn cả với đời, sư  sãi ăn uống bình thường như dân dã. Phật tử Lào thường tích đức bằng nhiều hoạt động gọi là Thiện Nghiệp. Vào những dịp lễ hội, Lào hấp dẫn khách du lịch và các Phật tử đến tham quan, tìm hiểu Phật giáo không kém gì xứ sở chùa vàng – đất nước láng giềng Thái Lan. Có thể nói Phật giáo tiểu thừa đã ảnh thưởng rất lớn đến đạo đức, tư cách, cách cư xử của người Lào. Họ không coi trọng lắm đến việc tích lũy của cãi cho riêng mình mà họ dùng của cải cá nhân để cúng bái, tu sửa chùa chiền. Do ảnh hưởng của Phật giáo nên người Lào luôn nhã nhặn, ôn hòa, tự kiềm chế và họ ghét lối sống cực đoan trong thực tế… Ngoài ra người Lào cũng lưu giữ một kho tàng phong tục tập quán rất đa dạng những cũng khá đồng nhất, điều này rất dễ nhận ra bởi mỗi một vùng, mỗi địa phương đều có những phong tục riêng nhưng vẫn mang tính phổ quát. Tính phổ quát thể hiện trước hết ở cách ăn, mặc: Về mặc: đặc điểm chung là váy, khố, trang phục thường có phục trang và trang sức với vòng đeo tay, cổ, khuyên tai… Về ăn: tục ăn uống của người Lào với cơm là chính, rau, cá, hoa quả, thịt là phụ. Và với tất cả người Lào họ đều mong chờ ngày tết cổ truyền của dân tộc với tên gọi Bunpimay hay còn gọi là Tết té nước diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 hàng năm. Người dân té nước để cầu may, bình yên cho cả năm. Đầu tiên họ tưới nước lên các tượng Phật, sau đó còn té nước vào các nhà sư, chùa và cây cối xung quanh chùa, rồi đến những người xung quanh. Họ còn té nước vào nhà cửa, đồ thờ cúng, súc vật và công cụ sản xuất. Trong những ngày này, người dân còn xây tháp cát, phóng sinh, ăn món lạp, hái hoa tươi, buộc chỉ cổ tay. Với người Lào, những phong tục trong lễ hội Bunpimay mang ý nghĩa đem lại sự mát mẻ, phồn vinh cho vạn vật, ấm no hạnh phúc cho cuộc sống, là dịp để nuôi dưỡng và hun đúc nghệ thuật dân tộc. Một trong những phong tục của người Lào còn được thể hiện trong cách ở, họ ở trên những ngôi nhà sàn vì nhà sàn phù hợp với điều kiện, địa hình, khí hậu nước Lào. Bên cạnh đó, tín ngưỡng bản địa của người Lào hết sức đa dạng, tín ngưỡng đó gồm tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng người đã mất, tín ngưỡng thờ thần. Lào còn được coi là đất nước của những lễ hội, tháng nào trong năm cũng có. Lễ hội ở Lào hay còn được gọi là Bun, nghĩa là phước, làm Bun nghĩa là làm phước để được phước. Cũng giống như các nước khác trong khu vực Đông Nam Á, lễ hội tại đất nước Lào cũng chia làm hai phần: phần lễ là phần nghi thức do chính con người đặt ra để giao cảm với thần linh và phần hội chủ yếu là vui chơi, giải trí. Các lễ hội lớn của Lào gồm Bun Pha Vet (Phật hóa thân) vào tháng 1; Bun Visakha Puya (lễ Phật đản) vào tháng 4; Bun BangPhay (pháo thăng thiên) vào tháng 5; Bun Khao PhanSa – (mùa chay) vào tháng 7; Bun Khao Padapdin (tưởng nhớ những người đã mất) vào tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Lễ hội tại Lào luôn gắn liền với chùa. Tuy nhiên người Lào cũng rất có ý thức trong việc tiếp nhận có chọn lọc những yếu tố từ bên ngoài. Với các đặc điểm của vị trí địa lí nên người Lào luôn sẵn sang tiếp thu văn hóa từ các dân tộc cả phương Đông và phương Tây như Thái Lan, Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp, Mỹ…Chính sự hòa quyện giữa yếu tố mở tiếp thu bên ngoài và yếu tố văn hóa bản địa đã làm cho văn hóa Lào ngày càng đa dạng, nhiều màu sắc trong đời sống hiện nay. Ngoài ra, một đặc điểm khác là hiện nay Lào lưu giữ nhiều nét văn hóa gắn liền với nông thôn: nền móng nông nghiệp lúa nước gắn với tổ chức làng xã, tổ chức làng xã có tính tự quản. 1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ẩm thực Lào 1.2.1. Ảnh hưởng của vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Như chúng ta đã biết, mỗi nền ẩm thực sẽ có những nhân tố khác nhau tác động đến khiến nền ẩm thực đó hình thành nên những đặc trưng riêng. Với đất nước Lào, dấu ấn văn hóa ẩm thực cũng được hình thành bởi sự tác động của khá nhiều nhân tố, trong đó có các yếu tố về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. vVị trí địa lý Lào là một quốc gia có đất liền bao quanh tại vùng Đông Nam Á với diện tích khoảng 236.800km2 vào loại rộng trung bình trên thế giới. Đây là nước có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất, không có biển, bị kẹp giữa dãy Trường Sơn và dòng sông Mêkông. Lào là một đất nước với 4 mặt là đất liền nên có sự giao lưu chặt chẽ với các nước láng giềng trên mọi phương diện, điều này đã ảnh hưởng khá lớn tới nền văn hóa ẩm thực. Lào có đường biên giới đất liền tiếp giáp với Thái lan, Campuchia, Việt Nam, Trung Hoa nên mọi sự giao lưu diễn ra hết sức thuận lợi. Vì văn hóa Lào là một nền văn hóa mở nên họ tiếp thu mọi tinh hoa văn hóa của các đất nước láng giềng, điều này đã tạo nên sự đa dạng trong văn hóa của người dân nơi đây. Nền ẩm thực cũng không nằm ngoài sự vận động đó. Hầu hết các món ăn của Lào đều mang đậm màu sắc của ẩm thực Thái Lan và Campuchia, do vậy đến với ẩm thực Lào ta sẽ tìm thấy trong đó sự kết hợp tuyệt vời giữa cái béo mà không ngậy trong ẩm thực Thái và vị giòn tan của các món ăn từ côn trùng hết sức đặc trưng trong ẩm thực Campuchia. v Điều kiện tự nhiên Địa hình cũng là nhân tố chi phối khá lớn tới văn hóa ẩm thực Lào. Được coi là tiểu lục có diện tích mặt nước lớn hơn mặt đất với những dòng sông trải dài như một mạng lưới trên khấp đất nước với dòng sông Mêkong hùng vĩ, Lào có một nguồn cá tôm nước ngọt dồi dào để phục vụ cho các bữa ăn, vì thế cá chính là thực phẩm chủ yếu của người dân nơi đây. Ngoài ra với một diện tích rừng khá lớn cùng những cao nguyên trù phú đã giúp cho họ có thể tận dụng những nguồn thức ăn từ tự nhiên như thú rừng, rau quả hay những loại côn trùng… Khí hậu Lào chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 tới tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4. Đất nước Lào có một nguồn khí hậu vô tận, thuận lợi cho sự phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới. Cường độ bức xạ mặt trời cao, lượng ánh sáng dồi dào (khắp nơi trong toàn quốc đều có ít nhất 1500 giờ nắng trong mỗi năm), cán cân bức xạ luôn luôn dương đã quy định ở nhiệt độ cao trên toàn lãnh thổ Lào: nhiệt độ trung bình cả năm ở các địa phương đều trên 260C (trừ các miền núi cao), tổng nhiệu độ hoạt động vượt quá 75000C. Điều kiện nhiệt đới này là yếu tố thiên nhiên rất thuận lợi cho sự phát triển thâm canh tăng vụ, vì cây trồng có thể sinh trưởng và phát triển quanh năm. Yếu tố thiên nhiên này lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới của Lào. Điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm với lượng mưa phong phú, ánh nắng chan hòa và lộng gió mùa cũng tại ra một nguồn năng lượng vô tận. Người ta còn tìm thấy sự tươi đẹp của khí hậu ở kho tàng vô giá của rừng nhiệt đới với nhiều loại động thực vật đặc hữu cơ có giá trị cao về kinh tế. Tuy là xứ sở của núi và cao nguyên, nhưng Lào có một nguồn dự trữ lớn về đất nông nghiệp – cơ sở cho việc phát triển toàn diện một nền nông nghiệp nhiệt đới với các loại nông phẩm khác nhau. Diện tích đồng bằng phù sa mới trải suốt dọc sông Mêkông và vùng hạ lưu của các phụ lưu của nó chiếm khoảng 10% diện tích lãnh thổ toàn quốc. Nhưng đồng bằng phù sa màu mỡ này được bồi đắp từ kỷ đệ từ, những đồng bằng này còn đang ở trong quá trình phát triển và là vựa lúa của nước Lào. Ở Lào, có nguồn tài nguyên thủy văn dồi dào có giá trị kinh tế quan trọng và đa dạng đồng thời là trục chính của đất nước, dòng Mêkông với 1300 km chiều dài, là yếu tố của sự thống nhất nước Lào về mặt địa lý. Vai trò đó cũng đủ nói lên tầm quan trọng có tính chất lồng kép về kinh tế của dòng sông này đối với nước Lào. Dòng Mêkông với hệ thống phụ lưu của nó đã tạo ra những đồng bằng màu mỡ, đã là chiếc nôi hồng lịch sử của các dân tộc Lào từ thời buổi xa xưa. Hệ thống thủy văn khá dày đặc phân bố rộng khắp trên lãnh thổ Lào, trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, không những là nguồn cung cấp nước dồi dào cho những nhu cầu phát triển công nông nghiệp trong tương lại mà còn là hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện cho việc nối liền các vùng nội địa với nhau. Cũng cần phải kể đến giá trị kinh tế của mạng lưới sông ngòi và hệ thống các hồ chứa nước sẽ xây dựng về sau này đối với việc phát triển nghề nuôi cá nước ngọt – một nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao cho nhân dân, nhất là tỏng điều kiện nước Lào không có vùng biển. Nguồn tài nguyên thủy văn là một thành phần quan trọng trong tổng thể lãnh thổ tự nhiên, là một tặng phẩm rất quý mà thiên nhiên đã dành cho đất nước Triệu Voi. Tài nguyên động, thực vật của Lào rất phong phú. Lào được mệnh danh là vương quốc của rừng. Điều đó nói lên vị trí kinh tế quan trọng của kho vàng xanh giàu có của Lào. Nếu đất nước Lào là một thiên đường của các nhà thực vật học thì cũng có thể nói rằng đây chính là một vườn bách thú thiên nhiên lý tưởng ở miền nhiệt đới với thành phần đa dạng của các loài động vật, chim chóc có giá trị kinh tế cao. Loại động vật đặc hữu có giá trị nhất của Lào là voi. Sự phong phú của loài động vật ấy khiến cho đất nước này từ xưa đã được mệnh danh là đất nước của Triệu Voi. Ngoài voi, còn có các loại động vật đặc hữu khác như hổ, báo, gấu, hươu, nai, bò rừng… và nhiều giống chim quý. Thú rừng của Lào có giá trị kinh tế lớn, chúng cung cấp một khối lượng thịt ngon và bổ đáng kể. 1.2.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội Lào là nước nằm sâu trong lục địa, không có đường thông ra biển và chủ yếu là đồi núi trong đó 47% diện tích là rừng, có một số đồng bằng nhỏ ở thung lũng sông Mê Kông, hoặc các phụ lưu như đồng bằng Viêng Chăn, Champasack. Theo thống kê, 45% dân số sống ở vùng núi, Lào có 800000ha đất canh tác nông nghiệp với 85% dân số sống bằng nghề nông. Lào có tài nguyên phong phú về lâm nghiệp, nông nghiệp, khoáng sản và thủy điện tạo điều kiện rất lớn cho việc phát triển kinh tế. Sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng một nửa tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và sử dụng 80% lực lượng lao động. Nền kinh tế vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các nguồn quốc tế khác cũng như từ đầu tư nước ngoài trong chế biến sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng. Tuy nhiên, chính sách quản lý và khai thác chưa hợp lý của nhà nước chưa mang lại hiệu quả khiến cho bức tranh kinh tế của Lào còn khá ảm đạm. Mức sống của cư dân nhìn chung còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng những nhu cầu sống vật chất (điện, nước, sinh hoạt..), nhu cầu giao lưu văn hóa, tinh thần, hoạt động phúc lợi xã hội cần được nâng cao hơn nữa. Hiện nay, nền kinh tế Lào có rất nhiều khởi sắc với việc thực hiện tốt chương trình kế hoạch 5 năm. Lào đang nắm bắt thời cơ, tạo những bước đột phá và tạo nên những tiền đề kinh tế - xã hội vững chắc. Tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 7,9%, thu nhập bình quân đầu người đạt 841 USD/người/năm. Đây được xem là những bước tiến quan trọng nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đồng thời có sự ảnh hưởng đáng kể đến nền văn hóa ẩm thực của đất