Đề tài Tìm hiểu về chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán, nhận xét và đề xuất pháp lý

Để đảm bảo cho thị trường chứng khoán vận hành một cách an toàn, hiệu quả, công khai, công bằng, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường và duy trì được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, từ đó góp phần thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển hơn nữa thì mọi quan hệ phát sinh trên thị trường phải được pháp luật dự liệu hay nói cách khác, cần có sự can thiệp của pháp luật vào hoạt động của thị trường, nhất là các hành vi xâm hại đến quy tắc hoạt động của thị trường. Nhận rõ được vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế của đất nước, các nhà làm luật đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và văn bản pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng, cũng như sửa đổi, bổ sung các văn bản cũ cho phù hợp với diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, các quy định hiện hành về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán đã phù hợp với điều kiện thực tế chưa, chế tài đã đủ mạnh chưa? Để làm rõ vấn đề này tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Tìm hiểu về chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán, nhận xét và đề xuất pháp lý của nhóm” sẽ giải quyết những vấn đề cơ bản nhất về vấn đề này.

doc14 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3334 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán, nhận xét và đề xuất pháp lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG CHÍNH 1 1. Khái quát chung về chế tài áp dụng khi xử phạt vi phạm pháp luật chứng khoán 1 2. Quy định của pháp luật về chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán 2 2.1. Các chế tài hành chính 2 2.1.1. Hình thức cảnh cáo 2 2.1.2. Hình thức phạt tiền 2 2.1.3. Hình thức xử phạt bổ sung 3 2.2. Các chế tài hình sự 3 2.3. Các chế tài dân sự 4 3. Thực tiễn thực hiện và một số nhận xét 5 3.1. Thực tiễn áp dụng các chế tài hành chính 5 3.1.1. Hình thức cảnh cáo 5 3.1.2. Hình thức phạt tiền 6 3.2. Thực tiễn áp dụng các chế tài hình sự 6 3.3. Nhận xét của nhóm về các chế tài xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán 7 3.3.1. Đối với các chế tài hành chính 7 3.3.2. Đối với các chế tài hình sự 9 4. Một số đề xuất pháp lý hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán 9 KẾT LUẬN 11 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12 LỜI MỞ ĐẦU Để đảm bảo cho thị trường chứng khoán vận hành một cách an toàn, hiệu quả, công khai, công bằng, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường và duy trì được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, từ đó góp phần thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển hơn nữa thì mọi quan hệ phát sinh trên thị trường phải được pháp luật dự liệu hay nói cách khác, cần có sự can thiệp của pháp luật vào hoạt động của thị trường, nhất là các hành vi xâm hại đến quy tắc hoạt động của thị trường. Nhận rõ được vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế của đất nước, các nhà làm luật đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và văn bản pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng, cũng như sửa đổi, bổ sung các văn bản cũ cho phù hợp với diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, các quy định hiện hành về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán đã phù hợp với điều kiện thực tế chưa, chế tài đã đủ mạnh chưa? Để làm rõ vấn đề này tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Tìm hiểu về chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán, nhận xét và đề xuất pháp lý của nhóm” sẽ giải quyết những vấn đề cơ bản nhất về vấn đề này. NỘI DUNG CHÍNH 1. Khái quát chung về chế tài áp dụng khi xử phạt vi phạm pháp luật chứng khoán Thông thường trong lĩnh vực chứng khoán, pháp luật các nước thường quy định các loại vi phạm pháp luật là: vi phạm hành chính, vi phạm dân sự và vi phạm hình sự. Tương ứng với mỗi hành vi vi phạm và mức độ nguy hiểm của mỗi hành vi, chủ thể thực hiện sẽ bị xử lý hành chính, xử lý dân sự và xử lý hình sự. Xử lý hành chính thường được áp dụng bởi cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hình thức xử phạt chính thường được quy định là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài ra còn áp dụng thêm một số hình thức xử phạt bổ sung như đình chỉ hoặc hủy bỏ giấy phép hành nghề; thu hồi, hủy bỏ giấy phép hoạt động của công ty; yêu cầu ngừng hoặc đình chỉ tư cách thành viên của Sở giao dịch hay Hiệp hội người giao dịch thị trường OTC; từ chối, đình chỉ hoặc rút đơn người đăng ký làm nhà môi giới giao dịch… Xử lý dân sự được đặt ra khi hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường và nộp tiền phạt là trách nhiệm đồng thời khi vi phạm. Nếu tài sản không đủ để thực hiện đồng thời hai loại trách nhiệm này thì thực hiện trách nhiệm bồi thường dân sự trước. Hình thức xử lý nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán là xử lý hình sự. Mục đích của hình phạt được áp dụng cho loại tội phạm này không chỉ nhằm trừng phạt hoặc ngăn ngừa khả năng phạm tội hoặc tái phạm, mà quan trọng hơn là để thỏa mãn và tạo dựng lòng tin nơi công chúng đầu tư, những người mà quyền lợi rất đông trong số họ đã bị tổn hại do hành vi của một hoặc vài cá nhân gây nên. Do đó, hình phạt thường có tính chất cảnh cáo, răn đe với mức độ cao hơn những tội phạm cùng loại trong các lĩnh vực khác. Hình phạt tiền được coi là hình phạt hiệu quả và thiết thực nhất đối với các tội phạm trong lĩnh vực này, nên được pháp luật của hầu hết các nước coi là hình phạt chính với mức phạt rất cao. Trong một số trường hợp có thể áp dụng hình phạt tù hoặc cả hai. 2. Quy định của pháp luật về chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán 2.1. Các chế tài hành chính Các quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đều khẳng định: tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trên thị trường chứng khoán phải chịu một trong hai hình thức xử phạt hành chính là cảnh cáo và phạt tiền. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 12 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. 2.1.1. Hình thức cảnh cáo Hình thức cảnh cáo được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân khi có đủ hai điều kiện sau: Một là, hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện được văn bản pháp luật về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo; Hai là, việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính về chứng khoán chỉ được thực hiện khi đó là vi phạm nhỏ, lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ. Có thể nói, cảnh cáo là hình thức xử phạt mang tính giáo dục đối với cá nhân, tổ chức vi phạm. Khác với hình phạt cảnh cáo, đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo không bị coi là có án tích và không bị ghi vào lý lịch tư pháp. 2.1.2. Hình thức phạt tiền Phạt tiền là hình thức xử phạt chính được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6 Nghị định 85/2010/NĐ-CP. Nhìn chung, các tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính về chứng khoán nếu không thuộc trường hợp bị xử phạt cảnh cáo thì sẽ bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền. Mức phạt tiền cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán là mức trung bình của khung phạt tiền đối với hành vi đó. Nếu vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể giảm thấp hơn nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung phạt tiền. Nếu vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức phạt có thể tăng cao hơn nhưng không được tăng quá mức tối đa của khung phạt tiền. Đối với trường hợp vi phạm hành chính có cả tình tiết tăng nặng lẫn giảm nhẹ thì tùy theo tính chất, mức độ của các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà người có thẩm quyền quyết định áp dụng mức phạt cao hơn hoặc thấp hơn mức trung bình hoặc áp dụng mức trung bình của khung hình phạt. 2.1.3. Hình thức xử phạt bổ sung Ngoài các hình thức xử phạt chính, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau: 1. Tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm hành chính; 2. Đình chỉ hoặc hủy bỏ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng; 3. Đình chỉ hoạt động; thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận trong lĩnh vực chứng khoán, chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Những hình thức xử phạt bổ sung trên không được áp dụng một cách độc lập mà phải áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính. Quyết định xử phạt không nhất thiết phải do một người có thẩm quyền quyết định áp dụng và ghi nhận trong cùng một văn bản áp dụng hình thức xử phạt chính mà chúng có thể do các cấp khác nhau có thẩm quyền quyết định áp dụng và cố nhiên nó có thể được ghi nhận trong các văn bản áp dụng khác nhau. Ngoài việc bị áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính như đã nêu trên, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. Các biện pháp này được quy định cụ thể tại Chương II Nghị định 85/2010/NĐ-CP cho từng dạng hành vi vi phạm cụ thể. Ví dụ: tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng có hành vi vi phạm quy định về hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng thì có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là: phải thu hồi chứng khoán đã chào bán, hoàn trả cho nhà đầu tư tiền mua chứng khoán hoặc tiền đặt cọc (nếu có) cộng thêm tiền lãi tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của ngân hàng mà tổ chức chào bán chứng khoán mở tài khoản thu tiền mua chứng khoán hoặc tiền đặt cọc tại thời điểm bị xử phạt vi phạm hành chính, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của nhà đầu tư (khoản 5 Điều 7 Nghị định 85/2010/NĐ-CP). Công ty đại chúng có hành vi vi phạm quy định về hồ đăng ký công ty đại chúng thì có thể bị áp dụng một hoặc cả hai biện pháp khắc phục hậu quả sau: 1. buộc chấp hành đúng quy định về đăng ký công ty đại chúng; 2. buộc hủy bỏ, cải chính thông tin đối với trường hợp hồ sơ đăng ký công ty đại chúng có thông tin sai lệch (khoản 4 Điều 9 Nghị định 85/2010/NĐ-CP)… 2.2. Các chế tài hình sự Cũng giống như pháp luật hình sự của nhiều nước trên thế giới, Bộ luật hình sự Việt Nam quy định hai hình phạt chính áp dụng đối với cá nhân thực hiện tội phạm về chứng khoán là phạt tiền và phạt tù có thời hạn. Đối với tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, Điều 181a Bộ luật hình sự quy định hai khung hình phạt: Khung cơ bản có mức phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm. Khung tăng nặng có mức hình phạt tù từ 1 năm đến 5 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết sau: - Có tổ chức; - Thu lợi bất chính lớn; - Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; - Tái phạm nguy hiểm. Đối với tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán và tội thao túng giá chứng khoán, Điều 181 b và Điều 181c Bộ luật hình sự đều quy định hai khung hình phạt: Khung cơ bản có mức phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Khung tăng nặng có mức phạt tù từ 2 năm đến 7 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết như trên. Ngoài hình phạt chính, cá nhân thực hiện tội phạm về chứng khoán còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung là: - Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 150 triệu đồng; - Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc là công việc nhất định từ 1 đến 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo. 2.3. Các chế tài dân sự Các vi phạm pháp luật dân sự trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán chủ yếu liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Khi bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Trách nhiệm dân sự là một hình thức cưỡng chế của Nhà nước và do Tòa án áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật. Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu là việc bắt buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm thỏa mãn quyền lợi chính đáng của người bị vi phạm, khắc phục những hậu quả vật chất cho người bị vi phạm. Tuy nhiên, hiện nay, một số quy định trong luật chứng khoán không đồng nhất với luật dân sự cần được làm rõ để tránh vi phạm. Ví dụ như: khái niệm bảo lãnh phát hành trong luật chứng khoán với khái niệm bảo lãnh trong luật dân sự. Theo quy định tại khoản 22 Điều 6 thì “Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng”. Như vậy, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán chỉ có ý nghĩa là tổ chức bảo lãnh phát hành bao tiêu chứng khoán cho tổ chức phát hành, không bao hàm việc tổ chức bảo lãnh phát hành thực hiện các nghĩa vụ đối với người đầu tư thay cho tổ chức phát hành. Tuy nhiên, khái niệm bảo lãnh trong dân sự lại có ý nghĩa khác. Điều 361 Bộ luật dân sự quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ…”. Hay như trong quy định về hoạt động lưu ký chứng khoán, trước khi bán chứng khoán, nhà đầu tư phải tiến hành lưu ký chứng khoán đó tại thành viên lưu ký, sau đó thành viên lưu ký đem chứng khoán đó tái lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam (VSD), tạo cơ sở cho việc chuyển nhượng thông qua ghi sổ chứng khoán. Về mặt hình thức, mối quan hệ giữa nhà đầu tư với VSD là mối quan hệ hợp đồng gửi giữ chứng khoán, theo đó, VSD nhận bảo quản chứng khoán cho khách hàng và thu phí theo số lượng chứng khoán nhận bảo quản. Tuy nhiên, so với đặc điểm truyền thống của hợp đồng gửi giữ quy định tại Bộ luật dân sự, việc gửi giữ chứng khoán tại VSD có những điểm khác biệt. Điều 559 Bộ luật dân sự quy định: “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ…”. Còn trong trường hợp lưu ký chứng khoán tại VSD, thì VSD không có nghĩa vụ trả lại chính chứng khoán đã được gửi giữ, mà chỉ phải trả lại các chứng chỉ chứng khoán với các quyền giống như các chứng khoán đã được lưu ký. Khách hàng gửi chứng khoán cũng không thể yêu cầu rút các chứng chỉ chứng khoán giống như chứng khoán mà mình đã lưu ký. 3. Thực tiễn thực hiện và một số nhận xét 3.1. Thực tiễn áp dụng các chế tài hành chính 3.1.1. Hình thức cảnh cáo Trong thực tiễn, hình thức cảnh cáo thường được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm quy định về báo cáo. Ví dụ: Ngày 16/06/2010, Chủ tịch UBCKNN ban hành Quyết định số 468/QĐ-UBCK quyết định áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với Công ty cổ phần Chứng khoán Nam Việt theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 33 Nghị định 36/2007/NĐ-CP, vì Công ty đã không gửi báo cáo tài chính năm 2009 tới UBCKNN trước ngày 31/3/2010, vi phạm quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 43 Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 của Bộ Tài chính về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán; Ngày 16/6/2010, Chủ tịch UBCKNN ban hành các Quyết định số 470/QĐ-UBCK, số 471/QĐ-UBCK và số 472/QĐ-UBCK quyết định áp dụng phạt cảnh cáo đối với 3 công ty: Công ty cổ phần Than Hà Lầm, Công ty cổ phần Sản xuất kinh doanh thiết bị y tế Việt Mỹ và Công ty cổ phần Đầu tư và vận tải dầu khí theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 33 Nghị định 36/2007/NĐ-CP, do 3 công ty này đã chậm nộp Báo cáo tài chính quý IV/2009 cho Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) vi phạm quy định tại Điều 1.2 Mục IV Thông tư 38/2007/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (nay là thông tư 09/2010/TT-BTC) (Công ty cổ phần Than Hà Lầm nộp chậm 44 ngày, Công ty cổ phần Sản xuất kinh doanh thiết bị y tế Việt Mỹ nộp chậm 42 ngày và Công ty cổ phần Đầu tư và vận tải dầu khí nộp chậm 56 ngày so với quy định). 3.1.2. Hình thức phạt tiền Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm mà mức phạt được áp dụng khác nhau đối với từng hành vi vi phạm cụ thể. Ví dụ: Ngày 16/3/2011, Chủ tịch UBCKNN ban hành Quyết định số 07/QĐ-TT quyết định phạt tiền 60 triệu đồng đối với bà Nguyễn Thị Hà Phương (Địa chỉ: 110 Ngô Quyền, Quang Trung, Hà Đông, Hà Nội) theo quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 23 Nghị định 85/2010/NĐ-CP, vì ngày 18/10/2010, bà Nguyễn Thị Hà Phương mua 62.000 cổ phiếu KBT làm số lượng cổ phiếu nắm giữ tăng lên 135.400 cổ phiếu (chiếm tỷ lệ 5,8%) và trở thành cổ đông lớn của Công ty cổ phần Gạch ngói Kiên Giang (mã CK: KBT) nhưng không báo cáo UBCKNN, HNX; từ ngày 19/10/2010 đến ngày 17/11/2010 bà Phương đã thực hiện mua 34.000 cổ phiếu KBT và bán 40.000 cổ phiếu KBT nhưng không báo cáo trước khi giao dịch và kết quả sau khi giao dịch với UBCKNN, HNX theo quy định. Hành vi của bà Phương đã vi phạm quy định tại Điểm 4.1 Mục 4 Phần II và Điểm 4.2, 4.3 Mục 4 Phần IV Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/1/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Ngày 14/3/2011, Chánh Thanh tra UBCKNN ký Quyết định số 06/QĐ-TT quyết định phạt tiền 40 triệu đồng đối với Công ty cổ phần Đầu tư Tài chính Thiên Hóa (Địa chỉ: 81 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội) theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Nghị định 85/2010/NĐ-CP, vì ngày 1/10/2010, Công ty cổ phần Đầu tư Tài chính Thiên Hóa là cổ đông lớn của Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Giáo dục Phương Nam (mã CK: SED), đã giao dịch mua 115.200 cổ phiếu SED trong khi HNX công bố thông tin về giao dịch với thời gian dự kiến từ ngày 4/10/2010. Hành vi của Công ty đã vi phạm quy định tại Điểm 4.2 Mục 4 Phần IV Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/1/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (Thông tư 09/2010/TT-BTC). Từ ngày 7/10/2010 đến ngày 19/10/2010, Công ty tiếp tục giao dịch mua 81.100 cổ phiếu SED và làm tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ thay đổi vượt quá 1% nhưng không báo cáo UBCKNN và HNX về thay đổi tỷ lệ sở hữu cổ đông lớn, vi phạm quy định tại Điểm 4.2 Mục 4 Phần II Thông tư 09/2010/TT-BTC. 3.2. Thực tiễn áp dụng các chế tài hình sự Từ sau khi Bộ luật hình sự sửa đổi có hiệu lực (từ ngày 1/1/2010), lần đầu tiên, một đối tượng bị khởi tố, điều tra bởi một trong 3 tội danh về chứng khoán quy định trong Bộ luật hình sự, sự kiện này được coi như một "tiếng động" nhấn mạnh rằng, Bộ luật hình sự phần các tội phạm chứng khoán đã chính thức được áp dụng trên thực tế. Tháng 11/2010, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với ông Lê Văn Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Dược Viễn Đông về hành vi thao túng giá chứng khoán. Theo điều tra ban đầu, thời gian gần đây, ông Dũng và Công ty Dược Viễn Đông tiến hành thâu tóm Dược Hà Tây, giá cổ phiếu của cả 2 doanh nghiệp đều biến động mạnh. Theo số liệu của UBCKNN, tại thời điểm ngày 21/6/2010, tổng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu DHT của Dược Viễn Đông và ông Lê Văn Dũng là 18,74%. Nếu tính thêm cổ phần mà Công ty Đầu tư Y tế Medi (cổ đông lớn của DVD), thì lượng cổ phần tại Dược Hà Tây mà nhóm cổ đông này nắm giữ là 22,12%. Đến ngày 22/6, Dược Viễn Đông lại tiến hành mua thêm 270.700 cổ phiếu DHT. Sau vụ mua bán này, tổng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu DVD và ông Lê Văn Dũng là 25,3% (tính cả Medi là 28,68%). Theo quy định hiện hành, đây là giao dịch phải thực hiện chào mua công khai (cổ phần nắm giữ của cổ đông vượt quá 25% vốn điều lệ), thế nhưng giao dịch lại được phía Dược Viễn Đông im lặng thực hiện thay vì tiến hành chào mua công khai. Hiện, hành vi thao túng giá chứng khoán của ông Dũng đang được Cơ quan điều tra làm rõ. Tuy nhiên, đây chỉ là vụ việc được hình sự hóa đầu tiên trong vô vàn vi phạm. Còn từ trước đến nay, hầu hết các vụ việc thao túng, làm giá trên thị trường chứng khoán khi bị phát giác mới chỉ dừng lại ở mức xử phạt hành chính. Điển hình như vụ bà Nguyễn Thị Kim Phượng (cổ đông lớn của Công ty cổ phần Vận tải Xi măng - mã cổ phiếu VTV) chào mua công khai 1,3 triệu cổ phiếu VTV trong 5 phiên liên tiếp, khiến cổ phiếu VTV đã tăng kịch trần. Sau đó, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội phát hiện bà Phượng không mua mà đã bán hết 557.800 cổ phiếu (chiếm 8,5% số cổ phiếu VTV mà bà này đang sở hữu). Hành động vi phạm quy định công bố thông tin này đã giúp bà Phượng thu lợi tới cả chục tỷ đồng, nhưng cũng chỉ bị xử phạt hành chính 170 triệu đồng. 3.3. Nhận xét của nhóm về các chế tài xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán 3.3.1. Đối với các chế tài hành chín
Luận văn liên quan