C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở thể kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp như những cụm đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như htế nào đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp hoá ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Căn cứ hai thuộc tính nói trên chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tíng chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2071 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về công nhân Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Muc lục
Trang
Chương I : Khái niệm giai cấp công nhân 1
Chương II : Những chuyển biến của giai cấp công nhân Việt Nam 3
Chương III: Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam 10
Tài liệu tham khảo 16
Chương I
Khái niệm giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở thể kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp… như những cụm đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như htế nào đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp hoá ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Căn cứ hai thuộc tính nói trên chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tíng chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
Ở Việt Nam, Giai cấp công nhân ra đời đầu thể kỉ XX do chính sách khai thác thuộc địa của tư bản thực dân Pháp. Trong thời kì này, dưới sự bóc lột của thực dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam mang cả hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân. Sau khi lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dưng đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì giai cấp công nhân Việt Nam là những người nắm trong tay tư liệu sản xuất và chỉ mang đăc trưng chủ yếu bằng thuộc tính thứ nhất của giai cấp công nhân. Cho đến nay tuy giai cấp công nhân đã có những chuyển biến tích cực nhưng còn có nhiều nhược điểm: số lượng ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp…
Chương II
Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam
Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhận thức rừ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đó đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân. Nhờ đó, giai cấp công nhân Việt Nam đó cú bước phát triển lớn mạnh, trưởng thành về chất và có những đóng góp to lớn vào quá trỡnh đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, giai cấp công nhân nước ta đang phải đối mặt với không ít thách thức, những con số khảo sát dưới đây thực sự là những vấn đề rất đáng để chúng ta suy ngẫm.
Chất lượng nguồn nhân lực - thỏch thức của quỏ trỡnh phỏt triển. Cùng với sự tăng trưởng nhanh của dũng vốn đầu tư nước ngoài và xu thế phát triển của các doanh nghiệp trong nước, đội ngũ công nhân nước ta đang bộc lộ dấu hiệu hụt hẫng và bất cập. Tỡnh trạng thiếu hụt lao động có tay nghề cao và cỏc chức danh quản lý cú trỡnh độ đang là hiện thực. Số liệu khảo sát tại tỉnh Đồng Nai cho thấy, 72,55% công nhân lao động trong các doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 - 35. Tuyệt đại bộ phận đều là học sinh phổ thông và xuất thân từ nông thôn, trong đó lao động phổ thông chiếm đến 43%; 27% có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của công việc đang đảm nhận nhưng đại đa số chưa qua đào tạo và không có bằng cấp. Số đó qua đào tạo có bằng cấp chỉ chiếm 30%, trong số đó được đào tạo, tỷ lệ có tay nghề cao cũng rất ít. Bậc 1- 3 chiếm tỷ lệ 66,51%, bậc 4 - 5 chiếm tỷ lệ 25,01%, bậc 6 và 7 chiếm chỉ có 6,88%. Không cần phải cảnh báo, với tốc độ thu hút FDI và xu thế phát triển như 2 năm gần đây (2006 - 2007), vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề sẽ càng trở nên trầm trọng. Giai cấp công nhân nước ta không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu phát triển của bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Ý thức giai cấp và phẩm chất chính trị của đội ngũ công nhân còn thấp. Chúng ta không phủ định mặt tích cực và những đóng góp chung to lớn của đội ngũ giai cấp công nhân nước ta, bởi họ là lực lượng đang vận hành những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xó hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế, nhưng trước mặt trái của cơ chế thị trường và diễn biến phức tạp của tỡnh hỡnh thế giới, nhiều cụng nhõn lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, một bộ phận chỉ lo lắng nhiều đến những vấn đề thiết thực trước mắt, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như định hướng xó hội chủ nghĩa, vai trũ vị trớ của giai cấp cụng nhõn...
Khảo sát tại Đồng Nai cho thấy: 95% công nhân trả lời chỉ quan tâm đến việc làm và thu nhập, có 40% công nhân được hỏi có quan tâm tới vấn đề định hướng xó hội chủ nghĩa, 3,5% cụng nhõn khụng trả lời. Tỷ lệ cụng nhõn là đảng viên rất thấp, năm 2003 là 7,69%, năm 2004 là 8,18%, năm 2005 là 6,87%. Tổ chức đảng được đánh giá là hoạt động tốt chỉ chiếm 35,7%, Công đoàn 45,5%, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chỉ có 24,6%, Hội Cựu chiến binh 5,9%. Cũng theo số liệu khảo sát tại 13 doanh nghiệp khác nhau với 5.400 công nhân, cho thấy chỉ có 38,2% công nhân thường xuyên được học tập các nghị quyết của Đảng. Trong đó doanh nghiệp nhà nước có tỷ lệ 51,9%, doanh nghiệp liên doanh 40%, công ty cổ phần 37,5%, công ty tư nhân 32,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 24,9%. Bản thân công nhân cũng không thường xuyên cập nhật thông tin. Khảo sát 100 cụng nhõn Cụng ty Giầy Thỏi Bỡnh về WTO chỉ cú 10% trả lời cú nghe núi về WTO nhưng không hiểu WTO là gỡ.
Rừ ràng, nếu bản thõn người công nhân chưa giác ngộ về mục tiêu lý tưởng, non yếu về bản lĩnh chính trị cộng với trách nhiệm của các cấp và công tác đào tạo chăm lo như hiện nay, thỡ sẽ rất khú vượt qua được áp lực của toàn cầu hóa và hội nhập.
Cường độ lao động, việc làm, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần đang xuất hiện nhiều vấn đề nghịch lý. Nước ta hiện đang thuộc nhóm quốc gia có số lượng lao động thất nghiệp cao, nhiều công nhân thiếu việc làm. Tuy thiếu việc làm nhưng nhỡn chung cường độ làm việc của công nhân tại các doanh nghiệp lại rất căng. Hầu hết các doanh nghiệp đều tăng ca để bảo đảm kế hoạch và tăng doanh thu. Điều đáng nói là Luật Lao động quy định công nhân làm việc không quá 200h/người/năm, nhưng trong nhiều doanh nghiệp công nhân đó phải làm việc bỡnh quõn tới 500 - 600h/người/năm.
Ở khía cạnh đời sống, tuy người công nhân vẫn đang chấp nhận được với mức lương hiện nay, nhưng không phải lĩnh vực này không có vấn đề. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước, thu nhập của khối cán bộ, công chức hành chính, giáo dục bỡnh quõn 1,3 triệu/người/tháng; khối doanh nghiệp nhà nước 1,425 triệu/người/tháng; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1,4 triệu/người/tháng; khối văn phũng và cụng nhõn kỹ thuật cao 4 triệu/người/tháng. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1,15 triệu/người/tháng. Ở cỏc tỉnh Bỡnh Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu...cũng cú những số liệu khụng mấy cỏch biệt.
Không ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt siêu lợi nhuận, nhưng công nhân Việt Nam vẫn chỉ nhận được những đồng lương rất ít ỏi. Như vậy, nếu so với đóng góp chung và với cường độ lao động hiện nay, cộng với sự tăng lên của giá cả và các loại dịch vụ, đời sống của công nhân lao động trực tiếp sản xuất vẫn cũn rất nhiều khú khăn.
Đời sống vật chất là như vậy, điều kiện làm việc về tinh thần cũn đáng lo ngại hơn thế nhiều. Phải khẳng định nhiều doanh nghiệp chưa thực sự chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân tương xứng với quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Số lượng các khu công nghiệp gia tăng rất nhanh, nhưng đến nay chỉ có khoảng 2% công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất được thuê nhà ở do các doanh nghiệp xây dựng. Tuyệt đại bộ phận cũn lại phải tự lo thuờ lấy nhà ở trong những điều kiện chật chội, thiếu thốn, không đủ tiện nghi sinh hoạt và điều kiện an sinh tối thiểu về văn hóa, thẩm mỹ và môi trường sống. Cũn ở tại cỏc doanh nghiệp, điều kiện làm việc cũng không như mong muốn. Do đa phần công nghệ thiết bị ở nước ta thuộc thế hệ cũ, người lao động phải làm việc trong môi trường ô nhiễm như nóng, bụi, tiếng ồn, độ rung... vượt tiêu chuẩn quy định. Điều kiện làm việc không bảo đảm đó tỏc động xấu đến sức khỏe công nhân lao động, hậu quả là bệnh nghề nghiệp gia tăng và diễn biến phức tạp. Tuổi nghề của người công nhân đang có khuynh hướng rút ngắn đáng kể. Theo thống kê của ngành bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh, mười tháng đầu năm 2006 có 58.000 người nộp đơn xin trợ cấp một lần để được nghỉ việc vỡ khụng đủ sức khỏe làm việc đến lúc được hưởng chế độ hưu trí.
Ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa có công trỡnh và những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa tối thiểu cho công nhân. Theo một kết quả điều tra xó hội học tại Bỡnh Dương có đến 71,8% công nhân không hề đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7% không đi xem thi đấu thể thao, 95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ, 91,8% không bao giờ đến các nhà văn hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa tinh thần, 89% giải trớ bằng Ti vi, 82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng Internet. Nguyờn nhõn của tỡnh hỡnh trờn đều do công nhân không có đủ thời gian và bản thân các khu công nghiệp cũng không có đủ cơ sở vật chất để đáp ứng.
Thực trạng trên đây đó dồn nộn làm bựng nổ cỏc cuộc đỡnh cụng lan rộng và rất khú kiểm soỏt như hiện nay. Nếu từ 1995 đến 2005 tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh có 437 vụ đỡnh cụng (bỡnh quõn 40 vụ/năm), riêng 6 tháng đầu năm 2006 đó cú 303 vụ. Cú những vụ số lượng tham gia đến hàng nghỡn người, nhiều vụ kéo dài từ 1 - 2 ngày. Xu hướng cho thấy các cuộc đỡnh cụng tự phỏt ngày càng gia tăng và lan rộng, tính chất gay gắt, phức tạp khó lường. Đỡnh cụng trở thành hiện tượng phổ biến ở tất cả các thành phần kinh tế, trong đó doanh nghiệp nhà nước là 6,9%, doanh nghiệp tư nhân 30%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ cao nhất 66,5%. Nguyên nhân của các cuộc đỡnh cụng phần lớn đều xuất phát từ phía người sử dụng lao động không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật: Không trả lương đúng bảng lương đó đăng ký, tự ý thay đổi định mức lao động, sa thải công nhân vô cớ, hà khắc trong quản lý điều hành, điều kiện lao động không bảo đảm vệ sinh tối thiểu, tiền phụ cấp độc hại thấp, không đóng bảo hiểm xó hội, bảo hiểm y tế đầy đủ cho công nhân... Đáng nói hơn cả là tỷ lệ ký kết các hợp đồng lao động với công nhân rất thấp. Nếu có ký chủ yếu cũng chỉ là các hợp đồng ngắn hạn. Hiện nay mới chỉ có 21% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xó hội cho cụng nhõn, 69% cũn lại chưa được bảo đảm về những quyền lợi tối thiểu.
Vai trũ của cỏc tổ chức chớnh trị - xó hội trong phong trào cụng nhõn. Cùng với sự nghiệp đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đó cú sự trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, chưa bao giờ chúng ta có lực lượng công nhân đông đảo như hiện nay. Tính đến cuối năm 2005, tổng số công nhân lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đó lờn đến 11,3 triệu người. Trong đó doanh nghiệp nhà nước là 1,84 triệu, công nhân trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước 2,95 triệu, tăng 6,86 lần; 1,3 triệu công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3 lần; doanh nghiệp cá thể 5,29 triệu, tăng 1,63 lần so với 1995.
Công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, ngành dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, các ngành khác chiếm 4,8%. Riêng các cơ sở kinh tế cá thể công nhân chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 66,67%; 33,33% cũn lại làm việc trong lĩnh vực cụng nghiệp và tiểu thủ cụng nghiệp.
Các số liệu trên đây cho thấy, đội ngũ và cơ cấu giai cấp công nhân tăng nhanh, nhưng công tác phát triển đảng và vai trũ của Cụng đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong công nhân chưa tương xứng, thậm chí rất mờ nhạt.
Núi giai cấp cụng nhõn là giai cấp lónh đạo cách mạng, nhưng nhiều công nhân chưa muốn vào Đảng. Công tác phát triển đảng trong công nhân rất chậm, không có mục tiêu, kế hoạch và định hướng chiến lược cụ thể. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng các tổ chức đảng. Những nơi có tổ chức đảng thỡ lỳng tỳng trong cụng tỏc tổ chức và phương thức hoạt động, chất lượng đảng viên, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp loại hỡnh này đa phần là yếu kém.
Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong phong trào công nhân cũng đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc. Đoàn, hội là lực lượng xung kích và là trường học giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên công nhân, nhưng nhiều năm qua, tổ chức đoàn, hội cũng chưa có bước chuyển thích hợp. Hỡnh thức tổ chức và tập hợp thanh niờn cụng nhõn của đoàn, hội chưa thực sự hấp dẫn, chưa phù hợp với cuộc sống và nhu cầu của tuổi trẻ trước những đổi thay phong phú, đa dạng của đời sống thực tiễn. Nhiều cuộc đỡnh cụng, bói cụng tự phỏt liờn tiếp diễn ra trong cỏc doanh nghiệp thời gian qua chưa thấy rừ vai trũ của tổ chức Đoàn và Hội Liên hiệp thanh niên công nhân. Nếu đoàn và hội không là người đi tiên phong bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên, không là chỗ dựa vững chắc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, là nơi gửi gắm tỡnh cảm, niềm tin, đoàn và hội sẽ không tập hợp và tổ chức được thanh niên.
Tổ chức công đoàn cũng đang đặt ra nhiều vấn đề. Theo báo cáo của các nhà khoa học, từ năm 1995 - 2006 đó cú 700 cuộc đỡnh cụng diễn ra ở cỏc doanh nghiệp khụng cú tổ chức cụng đoàn. Chúng ta không phủ định thời gian qua tổ chức công đoàn đó làm được rất nhiều việc. Nhờ có các tổ chức công đoàn đời sống và quyền lợi của công nhân được bảo đảm và nâng lên rừ rệt. Nhưng phải thẳng thắn thừa nhận, hoạt động công đoàn đang đứng trước những thách thức rất lớn, nhất là tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn 20 năm, gần như hoạt động của các tổ chức công đoàn vẫn mang nặng đặc trưng chung của thời bao cấp. Bệnh hỡnh thức chủ nghĩa vẫn là phổ biến. Nhiều tổ chức cụng đoàn chưa thực sự đứng về phía những người lao động, bởi cán bộ công đoàn do doanh nghiệp trả lương, làm việc không chuyên trách dưới sự quản lý, lónh đạo trực tiếp của chủ doanh nghiệp. Các cuộc đỡnh cụng, bói cụng thời gian qua, ngoài những nguyờn nhõn khỏch quan, cũn cú một nguyờn nhõn thực tế khỏc, đó là sự yếu kém của các tổ chức công đoàn. Hàng loạt các vấn đề bức xúc nảy sinh giữa giới chủ và công nhân không được các tổ chức công đoàn phát hiện hũa giải kịp thời. Nhiều vụ việc cụng nhõn bị ngược đói, trự dập khụng cú nhiều tổ chức cụng đoàn lên tiếng bênh vực, bảo vệ. Tổ chức công đoàn đang có dấu hiệu thoát ly khỏi phong trào công nhân, không gắn và chưa thực sự đại diện cho lợi ích chính đáng của công nhân. Chúng ta đang thực sự thiếu một cơ chế chính sách đủ tầm cho hoạt động công đoàn. Đó đến lúc cần một cuộc cải biến thực sự mang tính cách mạng trong hoạt động công đoàn, trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ công đoàn chuyên trách. Xem việc thành lập tổ chức công đoàn là điều kiện bắt buộc đối với các nhà đầu tư, xây dựng tổ chức công đoàn thực sự là tổ chức chính trị của giai cấp công nhân.
Chương III
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII nhấn mạnh: “Cựng với quỏ trỡnh phỏt triển cụng nghiệp và cụng nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trỡnh độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm trũn sứ mệnh lịch sử của mỡnh”. Với tinh thần thẳng thắn, Đảng đó chỉ ra những hạn chế về xõy dựng, phỏt huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn và cụng đoàn trong quá trỡnh chuyển sang cơ chế mới: đó cú những biểu hiện coi nhẹ vị trớ, vai trũ giai cấp cụng nhõn, cỏc chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm được đổi mới, và khẳng định: “Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, công đoàn và các tổ chức chính trị - xó hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định và phát triển tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996).
Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về giai cấp công nhân ngày càng phát triển và hoàn thiện. Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định: “Đối với giai cấp cụng nhõn, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trỡnh độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trớ thức húa cụng nhõn”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trũ lónh đạo cỏch mạng trong thời kỳ mới...”.
Như vậy, có thể khẳng định: Sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vị trí, vai trũ của giai cấp cụng nhõn từng bước được bổ sung trong suốt quá trỡnh lónh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho việc hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng và phát huy vai trũ của giai cấp cụng nhõn, đó và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng có những đóng góp to lớn, có tính chất quyết định đến sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta tuy chỉ chiếm 17,5% tổng lực lượng lao động xó hội, nhưng hằng năm tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, và đang nắm giữ những cơ sở vật chất quan trọng nhất và có tính quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế - xó hội, thực sự là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, là lực lượng nũng cốt trong khối liờn minh cụng nhõn - nụng dõn - trớ thức, là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang phát triển nhanh chóng và có tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xó hội, cuộc đua giành thắng lợi trong sản xuất, kinh doanh hiện nay chủ yếu là đua tranh về trí tuệ, về hàm lượng chất xám, chất lượng nguồn nhân lực, giai cấp công nhân nước ta hiện đang cũn bộc lộ khụng ớt mặt hạn chế: Trỡnh độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đa phần chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc, nhiều công nhân chưa qua đào tạo; thiếu kỹ sư giỏi và công nhân lành nghề trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và công nghệ; có sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân; ý thức phấn đấu rốn luyện, học tập nõng cao trỡnh độ, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của không ít công nhân chưa cao; một bộ phận bị tha hóa, có lối sống thực dụng, phai nhạt lý tưởng... Trước yêu cầu của tỡnh hỡnh mới, việc xõy dựng, phỏt triển giai cấp cụng nhõn là yờu cầu khỏch quan và cấp bỏch, đũi hỏi Đảng, Nhà nước cũng như cả hệ thống chính trị cần hoạch định và thực hiện tốt chiến lược xây dựng, phát triển, phát huy triệt để vai trũ tiờn phong và gương mẫu của giai cấp công nhân, coi đây là nhiệm vụ chiến lược tất yếu, liên tục, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế,