Đề tài Tìm hiểu về sự ra đời và phát triển của hệ điều hành android

Android là hệ điều hành trên điện thoại di động (và hiện nay là cả trên một số thiết bị kĩ thuật số khác như máy ảnh và đầu kĩ thuật số) được phát triển chính bởi Google và dựa trên nền tảng hệ điều hành Linux. Trước đây, Android được phát triển bởi công ty liên hợp Android ( sau đó được Google mua lại vào năm 2005). Theo công ty nghiên cứu thị trường NPD, thiết bị di động sử dụng hệ điều hành Android bán được tại Mỹ trong quý II năm 2010 xếp vị trí đầu tiên với 33%, thứ 2 là BlackBerry OS với 28% và iOS ở vị trí thứ 3 với 22%. Android có một cộng đồng những nhà phát triển rất lớn viết các ứng dụng cho hệ điều hành của mình. Hiện tại có khoảng 80,000 ứng dụng cho Android OS và vào khoảng 100,000 ứng dụng đã được đệ trình, điều này khiến Android trở thành hệ điều hành di động có môi trường phát triển lớn thứ 2. Các nhà phát triển viết ứng dụng cho Android dựa trên ngôn ngữ Java. Sự ra mắt của Android vào ngày 5 tháng 11 năm 2007 gắn với sự thành lập của liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn mở, bao gồm 78 công ty phần cứng, phần mềm và viễn thông nhằm mục đính tạo nên một chuẩn mở cho điện thoại di động trong tương lai. Google công bố hầu hết các mã nguồn của Android theo bản cấp phép Apache. Hệ điều hành Android bao gồm 12 triệu dòng code; 3 triệu dòng XML (eXtensible Markup Language, "Ngôn ngữ Đánh Dấu Mở rộng"), 2.8 triệu dòng mã C, 2.1 triệu mã Java và 1.75 triệu dòng mã C++.

doc36 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3455 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về sự ra đời và phát triển của hệ điều hành android, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT HÀ NỘI KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN MẠNG MÁY TÍNH BÀI TẬP LỚN NGUYÊN LÝ HỆ ĐIỀU HÀNH Giáo Viên Hướng Dẫn: Nguyễn Thị Hữu Phương Sinh Viên Thực Hiện: Lê Minh Đạt 1121050025 Hoàng Thanh Tùng 1121050333 Vũ Thị Huyền 1121050226 Lớp: Mạng Máy Tính K56 Đề Tài: Tìm Hiểu Về Sự Ra Đời Và Phát Triển Của Hệ Điều Hành Android Hà Nội – Ngày 24 Tháng 04 Năm 2013 MỤC LỤC 1. Vũ Thị Huyền. Tìm hiểu về: Sự ra đời của hệ điều hành Android. Giấy phép. Biểu tượng của hệ điều hành Android. Phiên bản Android 1.0 Phiên bản Android 1.1 Phiên bản Android 1.5: Cupcake Phiên bản Android 1.6: Donut 2. Hoàng Thanh Tùng. Tìm hiểu về: Phiên bản Android 2.0 và 2.1 : Éclair Phiên bản Android 2.2 : Froyo. Phiên bản Android 2.3 : Gingerbread Phiên bản Android 3.0 : Honeycomb Phiên bản Android 4.0 : Ice Cream Sandwich Phiên bản Android 4.1 và 4.2 : Jelly Bean. 3. Lê Minh Đạt Tìm hiểu về: Cấu trúc của Hệ Điều Hành Android: + Bootloader + Ngôn ngữ của Android + Hacking – Root + Kernel Nhược điểm của Android: + Sự kém mượt và pin yếu. + Sự phân mảnh của Android thể hiện qua Model, Thương hiệu, các phiên bản Android, Độ phân giải màn hình. Malware Cách thức Google kiếm tiền với Android – một hệ điều hành mã nguồn mở Kết luận. ANDROID NGƯỜI KHỔNG LỒ XANH GIỚI THIỆU VỀ HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỞ ANDROID. Android là hệ điều hành trên điện thoại di động (và hiện nay là cả trên một số thiết bị kĩ thuật số khác như máy ảnh và đầu kĩ thuật số) được phát triển chính bởi Google và dựa trên nền tảng hệ điều hành Linux. Trước đây, Android được phát triển bởi công ty liên hợp Android ( sau đó được Google mua lại vào năm 2005). Theo công ty nghiên cứu thị trường NPD, thiết bị di động sử dụng hệ điều hành Android bán được tại Mỹ trong quý II năm 2010 xếp vị trí đầu tiên với 33%, thứ 2 là BlackBerry OS với 28% và iOS ở vị trí thứ 3 với 22%. Android có một cộng đồng những nhà phát triển rất lớn viết các ứng dụng cho hệ điều hành của mình. Hiện tại có khoảng 80,000 ứng dụng cho Android OS và vào khoảng 100,000 ứng dụng đã được đệ trình, điều này khiến Android trở thành hệ điều hành di động có môi trường phát triển lớn thứ 2. Các nhà phát triển viết ứng dụng cho Android dựa trên ngôn ngữ Java. Sự ra mắt của Android vào ngày 5 tháng 11 năm 2007 gắn với sự thành lập của liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn mở, bao gồm 78 công ty phần cứng, phần mềm và viễn thông nhằm mục đính tạo nên một chuẩn mở cho điện thoại di động trong tương lai. Google công bố hầu hết các mã nguồn của Android theo bản cấp phép Apache. Hệ điều hành Android bao gồm 12 triệu dòng code; 3 triệu dòng XML (eXtensible Markup Language, "Ngôn ngữ Đánh Dấu Mở rộng"), 2.8 triệu dòng mã C, 2.1 triệu mã Java và 1.75 triệu dòng mã C++. HỆ ĐIỀU HÀNH MÃ NGUỒN MỞ ANDROID. Sự Ra Đời. Tháng 7 năm 2005 Google mua lại Android Inc, một công ty nhỏ được thành lập từ năm 2003 có trụ sở ở Palo Alto, California, Mỹ. Những nhà đồng sáng lập của Android chuyển sang làm việc tại Google gồm có Andy Rubin (đồng sáng lập công ty Danger), Rich Minner (đồng sáng lập công ty Wildfire Communications), Nick Sears (từng là phó chủ tịch của T-Mobile), và Chris White (trưởng nhóm thiết kế và phát triển giao diện tại WebTV). Khi đó, có rất ít thông tin về các công việc của Android, ngoại trừ việc họ đang phát triển phần mềm cho điện thoại di động. Điều này tạo những tin đồn về việc Google có ý định bước vào thị trường điện thoại di động. Tại Google, nhóm do Rubin đứng đầu đã phát triển một nền tảng thiết bị di động dựa trên hạt nhân Linux, được họ tiếp thị đến các nhà sản xuất thiết bị cầm tay và các nhà mạng trên những tiền đề về việc cung cấp một hệ thống mềm dẻo, có khả năng nâng cấp mở rộng cao. Một số nguồn tin cho biết trước đó Google đã lên danh sách các thành phần phần cứng và các đối tác phần mềm, đồng thời ra hiệu với các nhà mạng rằng họ sẵn sàng hợp tác ở nhiều cấp độ khác nhau. Ngày càng nhiều suy đoán rằng Google sẽ tham gia thị trường điện thoại di động xuất hiện trong tháng 12 năm 2006. Tin tức của BBC và Nhật Báo Phố Wall chú thích rằng Google muốn đưa công nghệ tìm kiếm và các ứng dụng của họ vào điện thoại di động và họ đang nỗ lực làm việc để thực hiện điều này. Các phương tiện truyền thông tin và online cũng sớm có bài viết về những tin đồn cho rằng Google đang phát triển một thiết bị cầm tay mang thương hiệu Google. Và lại càng có nhiều suy đoán sau bài viết về việc Google đang định nghĩa các đặc tả công nghệ và trình diễn các mẫu thử với các nhà sản xuất điện thoại di động và nhà mạng. Tháng 9 năm 2007, tờ InformationWeek đăng tải một nghiên cứu của Evalueserve cho biết Google đã nộp một số đơn xin cấp bằng sáng chế trong lĩnh vực điện thoại di động. Ngày 5 tháng 11 năm 2007, Liên Minh Thiết Bị Cầm Tay Mở Rộng (Open Handset Alliance), một hiệp hội bao gồm nhiều công ty trong đó có Texas Instruments, Tập Đoàn BroadCom, Google, HTC, Intel, LG, Tập Đoàn Marvel Technology, Motorola, Nvidia Qualcomm, Samsung Electronics, Sprint Nextel và T-Mobile được thành lập với mục đích phát triển các tiêu chuẩn mở cho thiết bị di động. Cùng với sự thành lập của OHA (Liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn mở), họ cũng giới thiệu sản phẩm Android đầu tiên. Nó là một thiết bị di động có hệ điều hành dựa trên nhân Linux phiên bản 2.6.(2.7) Ngày 9 tháng 12 năm 2008 thêm 14 thành viên mới gia nhập dự án Android được công bố, gồm có ARM Holdings, Atheros Communications, Asustek Computer Inc, Garmin Ltd, Softbank, Sony Ericsson, Toshiba Corp và Vodafone Group Plc Giấy Phép. Trừ những giai đoạn cập nhật ngắn, Android đã lưu hành với mã nguồn mở kể từ ngày 21 tháng 10 năm 2008. Google đã mở toàn bộ mã nguồn (bao gồm cả các ngăn xếp mang và điện thoại) dưới giấy phép Apache. Với giấy phép Apache, các nhà cung cấp có thể thêm những mở rộng thương mại mà không cần chuyển chúng thành mã nguồn mở. Biểu Tượng. Biểu tượng đại diện của hệ điều hành Android hiện tại là chú robot màu xanh, vốn được biết đến với tên gọi Bugdroid, ngay từ khi ra mắt đã trở nên phổ biến và được ưa chuộng trên thị trường di động thế giới. Tuy nhiên, chú robot xanh xinh xắn lại không phải là biểu tượng đầu tiên của hệ điều hành này. Người máy màu xanh lá này đã trở nên quá quen thuộc trên toàn cầu Hình ảnh về những con robot trông có vẻ tinh nghịch với hình dáng như những chiếc kẹo bên dưới đây chính là hình đại diện được đề cử đầu tiên dành cho hệ điều hành Android. Chúng được sáng tạo bởi Dan Morill, một nhân viên làm việc trong bộ phận lập trình của Google, vào năm 2007. Tuy không được lựa chọn để làm hình ảnh đại diện chính thức, nhưng những biểu tượng vui nhộn này cũng đã tồn tại trong một khoảng thời gian khá dài với biệt danh Dandroids. Dandroids có vẻ "nhí nhố" hơn Bugdroid Dandroids mặc dù mang những nét đặc trưng riêng nhưng đến sau cùng, Google đã chọn “người máy” Bugdroid – với dáng vẻ hiện đại và trẻ trung hơn – được sáng tạo bởi Irina Blok, làm biểu tượng chính thức cho hệ điều hành di động của họ. Bên cạnh đó, để khẳng định thương hiệu, cách đặt tên các phiên bản hệ điều hành Android theo các món ăn tráng miệng do Ryan PC Gibson đề xuất cũng đã được Google áp dụng. Và cho đến bây giờ, Android đã và đang mang đến thêm nhiều hương vị ngọt ngào nữa như Cupcake, Donut, Ice Cream Sandwich, Jelly Bean hay sắp tới đây sẽ là Key Lime Pie. Các phiên bản Android được đặt tên theo các món tráng miệng LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHIÊN BẢN ANDROID. Android đã có những bước đi dài kể từ khi thiết bị đầu tiên dùng hệ điều hành này xuất hiện, chiếc HTC Dream (ở nhiều nước gọi là T-Mobile G1) . Trong quãng thời gian ấy, người dùng đã chứng kiến sự xuất hiện của rất nhiều phiên bản Android, giúp nó dần biến đổi thành một nền tảng di động mạnh mẽ như ngày hôm nay. Điểm Khởi Đầu Của Android – Android 1.0 (Linux Kernel 2.6, 2.7) Kỉ nguyên Android chính thức khởi động vào ngày 22/10/2008, khi mà chiếc điện thoại T-Mobile G1 chính thức được bán ra ở Mỹ. Ở giai đoạn này, rất nhiều những tính năng cơ bản cho một smartphone bị thiếu sót, chẳng hạn như bàn phím ảo, cảm ứng đa điểm hay khả năng mua ứng dụng. Tuy nhiên, vai trò của phiên bản đầu tiên này vô cùng quan trọng. Nó đã đặt nền móng cho các tính năng có thể xem là đặc điểm nhận dạng của Android ngày nay. Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android đã được tích hợp một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với những đối thủ cạnh tranh thời bấy giờ mặc dù nó không được tốt như Notification Bar trên các thế hệ Android mới. Người dùng có thể nhanh chóng xem những tin nhắn đến, xem ai mới gọi nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà phần mềm trên đang máy muốn người dùng biết. Tất cả thông báo đều tập hợp trong một danh sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao gồm đồng hồ, biểu tượng pin, biểu tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi đây, giúp tiết kiệm tối đa không gian màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu thông tin cho người sử dụng. Mãi cho đến ngày nay, Android 4.2 vẫn duy trì ý tưởng tuyệt vời này. Màn hình chính và widget: Nếu muốn so sánh Android, iOS và Windows Phone, điểm khác biệt lớn nhất đó là một màn hình chính. Màn hình chính của Android thật sự rất phong phú. Có thể thay đổi hình nền (Windows Phone không làm được điều này), đặt icon ra màn hình chính, sử dụng widget và hơn hết là thay luôn cả cái màn hình chính nếu muốn. Độ tùy biến của màn hình chính trên Android có thể xem là cao nhất trong các hệ điều hành di động hiện nay. Về phần widget, đây cũng là một điểm hay của Android vì nó cho phép người dùng nhanh chóng truy cập đến một số tính năng nào đó hoặc xem nhanh các thông tin cập nhật chi tiết một cách nhanh nhất. Widget cũng đóng vai trò trang trí cho màn hình chính nữa. Symbian cũng có widget nhưng chưa so được với Android về mức độ phong phú và chức năng (tất nhiên là phải về sau này, còn lúc mới ra thì chưa có nhiều). Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức POP và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động, nhưng vấn đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ những tính năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn cho email). Android 1.0 ra mắt đã khắc phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại trải nghiệm Gmail tốt nhất trên thị trường vào thời điểm đó. Về mặt giao diện: Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác của một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT). Từ Android 1.0 đến 2.2, có thể thấy sự xuất hiện của một widget đồng hồ quen thuộc, tuy đơn giản nhưng khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn của TAT. Một thời gian sau, TAT bị RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền tảng BlackBerry OS cũng như BBX. Mối quan hệ của TAT với Google Android cũng chấm dứt ở đây. Android 1.1 (Ngày 9 Tháng 2 Năm 2009) Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to lớn bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho thấy khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải về và cài đặt bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm đó, rất ít hệ điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đến một phần mềm chuyên dụng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy Danger Hiptop (được biết nhiều hơn với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần giống over the air theo từng giai đoạn, và chính Andy Rubin, người sáng lập công ty Android Inc. (sau đó Google mua lại) cũng chính là nhà đồng sáng lập hãng Danger. Android 1.5 Cupcake (Linux Kernel 2.6,27 – Ngày 30 Tháng 4 Năm 2009) Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh tranh với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi tên theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Cupcake là một loại bánh nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên trên. Sau này ta có thêm Donut, Eclair (bánh su kem nhưng dài, nhân chocolate), FroYo (ya-ua đá), Gingerbread (bánh gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ ong), Ice Cream Sandwich (bánh sandwich kem) và mới đây nhất là Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên nhỏ, hình hạt đậu). Về mặt giao diện, Android 1.5 không có nhiều điểm thay đổi so với người tiền nhiệm của mình. Google chỉ điểm thêm vài điểm để làm giao diện trông bóng bẩy, mượt mà hơn một tí, chẳng hạn như widget tìm kiếm có độ trong suốt nhẹ, biểu tượng app drawer có một số hoa văn nhỏ mới, v.v. Nói chung, giao diện không phải là một điểm nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn đến các tính năng mới mà nó mang lại, chẳng hạn như: Bàn phím ảo: Tại sao Google không cho những bản Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu phải là họ không có khả năng làm đâu? Thực chất, mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với BlackBerry. Vâng, thời đó BlackBerry đang rất nổi và được nhiều người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ, bởi chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy mà G1 có một bàn phím QWERTY trượt ngang. Mãi đến bản Cupcake này mới có một chiếc điện thoại Android thuần cảm ứng là HTC Magic được giới thiệu. Cùng với đó, Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi là hook, để họ có thể tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android. Lại thêm một điểm nữa khiến cho Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành đối thủ khác. Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc định rất chậm và không chính xác khi so sánh với iOS, chính vì thế mà những hãng sản xuất phần cứng như HTC đã phát triển riêng một biện pháp khắc phục, cũng may là có hook do Google mở ra. Mở rộng khả năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng tiềm năng của nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần mềm cho lập trình viên. Từ Android 1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đến thời điểm hiện tại, kho widget của Android đã rất phong phú, đó là chưa kể đến những ứng dụng của bên thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng này mà việc tùy biến giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa. Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta có thể gõ chữ được) và sao chép các đường link mà thôi. Ví dụ đang đọc mail hay đang duyệt web thì chịu, chúng ta không cách gì sao chép được. Với Cupcake thì Google cho phép sao chép nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt. Còn với Gmail thì phải đến vài bản nâng cấp sau mới có được tính năng này. Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại bán ra mà không hề có tính năng quay phim, nhưng đó là những gì mà chiếc T-Mobile G1 phải "hứng chịu" (cũng hơi giống iPhone những đời đầu). Mãi đến Android 1.5 thì Android mới quay phim được. Nhưng cũng giống với bàn phím, trình camera mặc định của Android không tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh chóng thay nó với ứng dụng của riêng mình với các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét, tùy chỉnh thông số video. Và còn nhiều thứ khác nữa bao gồm khả năng xóa hoặc di chuyển hàng loạt email trong Gmail, cho phép tải ảnh, video lên YouTube, Picasa, truy cập danh bạ trong Google Talk từ nhiều ứng dụng khác. Android 1.6 Donut (Linux Kernel 2.6,29 – Ngày 30 Tháng 9 Năm 2009) Phiên bản bánh Donut này, mặc dù chỉ thêm có 0.1 vào mã số của Android 1.5 nhưng nó cũng mang lại nhiều cải tiến đáng giá. Một vài điểm trong giao diện được cải thiện, vài tính năng nhỏ được thêm vào, cuối cùng là hỗ trợ cho mạng CDMA. Động thái này cho phép nhiều nhà mạng hơn có thể sử dụng với Android, giúp cho Android có thêm một số lượng lớn người dùng ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa. Nhưng có lẽ điểm thú vị nhất của Donut đó là hỗ trợ các thành phần đồ họa độc lập với độ phân giải. Lần đầu tiên, Android có thể chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khá nhau, cho phép những thiết bị có nhiều độ phân giải hơn là 320 x 480. Hiện nay, chúng ta có những chiếc smartphone Android chạy ở độ phân giải QVGA, HVGA, WVGA, FWVGA, qHD, và 720p, HD và Full HD. Vài chiếc máy tính bảng còn đạt mức 1920 x 1080 nữa. Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với cái tên Universal Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Có thể tìm kiếm danh bạ, ứng dụng, nhạc, tin nhắn,…, tất cả đều chỉ thao tác trong một hộp tìm kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút Search trên máy Android thì chỉ có thể tìm kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng cho phép những lập trình viên tích hợp tính năng tìm kiếm mới này vào ứng dụng của mình để mở rộng thêm khả năng của Quick Search Box. Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông màu xanh trắng đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí hàng đầu. Những ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao diện camera mới, tíhc hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần chụp ảnh. Nhưng cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của riêng mình. Android 2.0 và Android 2.1 Éclair (Linux Kernel 2.6,29 – 26/10/009) Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi G1 chào đời, Android 2.0 đã được ra mắt. Thật sự không ngoa khi mô tả Android 2.1 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn cho những nhà phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện thoại "lớn" được ra mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android 2.0, lúc mới ra mắt chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon, một trong những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỉ nguyên Android lớn mạnh như ngày hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola Milestone khi nó xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và cả Google khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android. Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn nhất mà Android từng có kể từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại hình lẫn kiến trúc bên trong. Vào thời điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải cao và lạ 854 x 480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã làm cho sản phẩm này đứng đầu thế giới Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có những tính năng khiến cho nó dễ bán hơn, chẳng hạn như: Hỗ trợ nhiều tài khoản người dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có thể được đăng nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoft Exchange cũng được hỗ trợ trong Eclair. Người dùng có thể duyệt qua danh bạ, email của từng tài khoản. Google giờ đây cho phép những nhà phát triển bên thứ ba tích hợp dịch vụ của họ vào trong mục Account này, đồng thời hỗ trợ tự động đồng bộ hóa. Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ xuất hiện để người dùng tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và hơn thế nữa. Miễn là nơi nào có biểu tượng contact xuất hiện là nơi đó có thể dùng Quick Contact. Sau này có thêm Twitter, Facebook và nhiều dịch vụ đồng bộ khác cũng tích hợp tính năng riêng của mình vào Quick Contact. Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc G1, Droid/Milestone có một bàn phím QWERTY đầy đủ dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người dùng sử dụng thêm bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại. Mặc dù tính năng cảm ứng vẫn còn một điều xa vời với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ và cả các phần mềm khác không hề dùng được tính năng hai ngón tay để phóng to, thu nhỏ,…) nhưng Eclair lại sử dụng dữ liệu multitouch từ bàn phím để xác định điểm chạm thứ hai trong lúc người dùng gõ nhanh. Độ chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó đã được cải tiến đáng kể. Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm ứng đa điểm nhưng trình duyệt trên Android 2.0 cũng có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ HTML5, bao gồm luôn khả năng phát video ở chế độ toàn màn hình. Hộp địa chỉ k