Thông qua sự tìm hiểu về tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng Sacombank Cần Thơ trong giai đoạn 2007-2009 nhóm em có những ý kiến đề xuất như sau :
- Chi nhánh nên tích cực trong việc triển khai các dịch vụ đi kèm hoạt động tín dụng nhằm thu được nhiều lợi nhuận, đồng thời hạn chế được rủi ro có thể xảy ra. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta khó có thể kiểm soát hết được hoạt động của khách hàng. Chỉ những khách hàng gắn bó với ngân hàng càng nhiều dịch vụ thì việc kiểm soát tín dụng mới càng chặt chẽ và hiệu quả hơn đặc biệt là mảng tín dụng trung và dài hạn.
Sacombank Cần Thơ cần phát huy hơn nữa các sản phẩm đặc trưng của chi nhánh nên đi sâu khai thác, không ngừng hoàn thiện các sản phẩm riêng so với các NHTM khác để khi nhắc tới sản phẩm dịch vụ ngân hàng khách hàng sẽ nhắc đến Sacombank nhiều hơn.
Chi nhánh cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên đề về các sản phẩm mới của ngân hàng. Khi khách hàng hỏi tới bất kỳ nhân viên nào cũng có thể giải đáp một cách dễ hiểu cho khách hàng biết, tránh tình trạng khách hàng phải hỏi qua nhiều trung gian.
Chi nhánh thực hiện chính sách giao dịch một cửa cho khách hàng đến giao dịch. Do đó, chi nhánh nên phát huy hơn nữa điểm mạnh này bằng cách thường xuyên củng cố kiến thức nghiệp vụ chuyên môn cho nhân viên. Từ cung cách phục vụ lẫn trình độ làm việc chuyên nghiệp sẽ tạo được ấn tượng tốt trong lòng mỗi khách hàng.
Mặt khác, chi nhánh cần hình thành nên các mối quan hệ thực sự minh bạch, trong sáng, trung thực, đặc biệt là mối quan hệ với khách hàng.
Chi nhánh Sacombank Cần Thơ là chi nhánh điển hình, tiêu biểu trong việc tuân thủ các nguyên tắc về giờ giấc làm việc, tác phong ăn mặc, giao tiếp và việc thực hiện các quy chế quy định. Đây là thành công bước đầu trong việc chinh phục khách hàng, tạo dấu ấn đối với khách hàng. Đặc biệt là đối với những khách hàng thường xuyên cần vốn và giao dịch với ngân hàng nhiều.
32 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5362 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng ngân hàng SacomBank chi nhánh Cần Thơ: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Chúng ta đã bước sang một thiên niên kỷ mới với rất nhiều cơ hội và thách thức, trên con đường chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của Nhà nước thì nhu cầu về vốn để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết. Ngành ngân hàng giữ vai trò khá quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ và xây dựng cơ sở hạ tầng. Tín dụng ra đời và phát triển gắn liền với quá trình phát triển không ngừng của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Một nền kinh tế năng động phát triển là một nền kinh tế có sự phát triển mạnh mẽ của các hình thức tín dụng. Xã hội càng phát triển thì các hình thức tín dụng càng phong phú và đa dạng. Tín dụng ngân hàng là một loại hình tín dụng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của một nền kinh tế phát triển. Sự phát triển của một nền kinh tế là sự tăng mạnh về khối lượng và chất lượng hàng hoá cùng với sự chu chuyển lượng hàng hoá đó trong nền kinh tế. Hàng hoá và tiền tệ tác động qua lại làm cho quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra liên tục thúc đẩy kinh tế đi lên. Sự ra đời của tín dụng ngân hàng là một bước đột phá lớn đối với mọi nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng khắc phục những yếu kém của các hình thức tín dụng trước đó đồng thời tín dụng ngân hàng huy động tối đa nguồn vốn xã hội thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng còn giải quyết những ách tắc trong thanh toán của hệ thống kinh tế
Để đạt được điều này thì phải có một tổ chức có khả năng đứng ra thực hiện chức năng tiếp nhận và phân phối các nguồn vốn trong xã hội đó là các Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngành Ngân hàng đã đóng góp không nhỏ những thành tựu của mình vào thành tựu chung của đất nước. Lĩnh vực tiền tệ tín dụng ngân hàng - một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế do hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình mang tính năng động và rủi ro cao cần được cải biến, đổi mới nhằm đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường. Với vai trò là một trung gian tài chính, cung cấp vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư, góp phần tăng trưởng kinh tế, hệ thống Ngân hàng đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của mình một cách có cơ sở khoa học. Nhất là từ khi hệ thông Ngân hàng hoạt động theo cơ chế Ngân hàng hai cấp thì vai trò của Ngân hàng ngày càng được thể hiện theo hướng tích cực.
Thành phố Cần Thơ là trung tâm của khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, là vùng kinh tế trọng điểm với nhiều thành phần kinh tế đa dạng, phong phú, là nơi tập trung nhiều xí nghiệp, doanh nghiệp, trung tâm thương mại, khu công nghiệp,…Do đó tất yếu phải phát triển dịch vụ Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu kinh tế xã hội Sacombank Cần Thơ ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu trên. Cũng như các Ngân hàng thương mai khác, Sacombank kinh doanh trong kĩnh vực tiền tệ với chức năng chủ yếu là huy động vốn để cho vay. Kinh doanh Ngân hàng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Trong đó, tín dụng là một hoạt động kinh doanh chủ yếu và đem lại lợi nhuận cao nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy hoạt động tín dụng của Ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro và những rủi ro này lại bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, để hoạt động kinh doanh ổn định và phát triển, đảm bảo có hiệu quả và hạn chế được rủi ro trước tiên phải thông qua việc phân tích hoạt động tín dụng. Đây là việc làm hết sức quan trọng, cần thiết và thường xuyên của tất cả các Ngân hàng, nhằm tìm ra các mặt đã làm được và chưa làm được từ đó có những giải pháp kịp thời, phát huy hơn nữa thế mạnh và hạn chế tổn thất có thể xảy ra.
Để làm sáng tỏ, nêu bật nên được tầm quan trọng của quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường nói chung và đặc biệt là hoạt động của Ngân hàng Sacombank tại Cần Thơ nói riêng về bản chất , chức năng, vai trò cũng như các hình thức tồn tại của quan hệ tín dụng và có thể đi sâu và học hỏi thêm những nghiệp vụ mà tín dụng ngân hàng mang lại, một phần nhằm nâng cao kiến thức và phần hiểu biết của mình. Trên cơ sở thực trạng hoạt động tín dụng hiện nay, với kiến thức được thầy cô trang bị và học tập được trong thời gian qua, em muốn đưa ra nhưng giải pháp và đánh giá cá nhân trên cơ sở những gì đã nghiên cứu và tìm hiểu. Nhóm em chọn đề tài “TÍN DỤNG NGÂN HÀNG - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.” Bài viết được trình bày gồm các chương:
CHƯƠNG 1: Một số lí luận chung về hoạt động tín dụng tại ngân hành thương mại :
I Quá trình ra đời và phát triển của hệ thống ngân hành thương mại:
Ngày nay , trong mỗi quốc gia , toàn bộ hệ thống ngân hàng hình thành 2 cấp rõ rệt gồm ngân hành trung ương ( central bank) và hệ thống ngân hàng trung gian ( gồm có ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, và các loại ngân hàng khác).
Tuy nhiên , từ khi mới hình thành hệ thống ngân hàng cho đến tận thế kỉ 18 thì chưa có sự phân biệt hai cấp như vậy. các ngân hàng hoạt động độc lập và chưa hình thành hệ thống. các nhà kinh doanh nghiệp vụ gần như giống nhau về nội dung và tính chất chẳng hạn như nhận tiền gửi, cho vay, mua bán giấy tờ có giá, và kể cả việc phát hành tiền cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa hệ thống ngân hàng từng bước phát triển , và hoàn thiện dần. Trong sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống ngân hàng chúng ta thấy rõ mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển của hệ thống ngân hàng với sự phát triển của hệ thống lưu thông tiền tệ. Chính hệ thống lưu thông tiền tệ bắt đầu bằng hình thái tiền đúc bằng kim loại quý đã làm nãy sinh nghề ngân hàng cách đây hàng ngàn năm để từ đó qua nhiều thế kỷ, hệ thống ngân hàng đã được định hình. Do chính phủ dần dần can thiệp vào hoạt động của ngân hàng đặc biệt là việc phát hành tiền và kiểm soát tiền tệ nên đã dẫn đến hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp và từ đó ngân hàng trung gian đã được phân ra để chuyên về kinh doanh tiền tệ và không còn việc phát hành tiền nữa.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hóa, hoạt động của những người bảo quản và trao đổi tiền tệ đã có thêm một bước phát triển mới ở thế kỷ 8 trước công nguyên. Họ không những thu nhận bảo quản, đổi tiền mà còn sử dụng số tiền bảo quản đó để cho vay , họ không những cho vay bằng tiền mặt mà còn sử dụng giấy tờ có giá thay tiền mặt.Điều đó càng làm cho hoạt động của ngân hàng ngày càng trở nên phong phú hơn trước và thuật ngữ ngân hàng bắt đầu xuất hiện từ đó.
Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, thương mại, việc trao đổi hàng hóa không chỉ được thực hiện ở thị trường trong nước mà ngày càng mở rộng ra thị trường nước ngoài. Ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu sự phát triển của hoạt động giao thương hàng hóa trong nước và quốc tế nên cũng phát triển them nhiều hàng hóa dịch vụ.
Như vậy qua lịch sử phát triển của kinh tế, thương mại, một mặt cho thấy quá trình hình thành ngân hàng thương mại không những là yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hóa mà còn sự phát triển tự hoàn thiện của hệ thống ngân hàng. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì hệ thống ngân hàng ngày càng được hoàn thiện và phát triển cả về tổ chức và sản phẩm ngân hàng.
*khái niệm ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại ( ngân hàng trung gian) là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán .
Hệ thống ngân hàng thương mại nước ta là hệ thống ngân hàng thương mại hai cấp, trong đó ngân hàng nhà nước làm nhiệm vụ ngân hàng trung ương, còn các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác hoạt động như các ngân hàng trung gian thực hiện chức năng kinh doanh.
II Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng :
1/ khái niệm và đặc điểm tín dụng ngân hàng:
1.1 khái niệm tín dụng ngân hàng:
Trong các hình thức tín dụng như (tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng tín dụng nhà nước, tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn…) thì tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng vai trò đặc biệt quan trọng, bởi vì nó cung cấp tín dụng cho hầu hết tất cả các doanh nghiệp , người dân trong nước, và các tổ chức khác có nhu cầu tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế- tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả những cá nhân và tổ chức, và các doanh nghiệp. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp người tạm thời thừa vốn sang người tạm thời thiếu vốn, mà là quan hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua ngân hàng thương mại. Nó cũng mang bản chất chung của một quan hệ tín dụng, đó là quan hệ mà người sở hữu một số tiền chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định, sau khoản thời gian này người sử dụng hoàn trả lại vốn và kèm theo lãi xuất đối với khoản tiền đó, nhưng nó được thực hiện trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi.
1.2 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng :
- Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hóa , tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay vốn dưới hình thức tiền tệ. bao gồm tiền mặt và bút tệ.
- Tín dụng ngân hàng chủ yếu cho vay bằng nguồn vốn của các thành phần trong xã hội, còn vốn của chủ sở hữu rất ít, nó không giống như tín dụng nặng lãi hay tín dụng thương mại sử dụng nguồn vốn của chính mình để cho vay.
-Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người đi vay đồng thời là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các danh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các danh ngiệp và cá nhân.
-Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa.
-Tín dụng ngân hàng thúc đẩy tập trung và điều hòa vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
-Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn có những ưu điểm so với các hình thức tín dụng khác như:
+ Phạm vi hoạt động rộng lớn vì nó kinh doanh chủ yếu bằng tiền nên nó có thể giao dịch đối với tất cả chủ thể trong nền kinh hơn so với tín dụng thương mại.
+ Với số một tiền lớn được huy động từ các chủ thể trong nền kinh tế, ngân hàng có thể cho các người vay với số lượng lớn hơn.
+ Thời hạn tín cho vay phong phú hơn, tùy theo nhu cầu của khách hàng muốn vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn mà ngân hàng điều chỉnh các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu.
-Bên cạnh có một số bất lợi của hình thức tín dụng ngân hàng là mức độ rủi ro của các khoản vay cao hơn hình thức tín dụng nhà nước, và tỉ suất sinh lời là thấp hơn.
2/vai trò của tín dụng ngân hàng:
2.1 Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì sản xuất và góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển:
-Trong nền kinh tế thị trường, đai bộ phận quỹ cho vay tập chung qua ngân hàng, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa, trang trải các chi phí và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho các đầu tư xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân.
- việc phân phối tín dụng góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động lực khuyến khích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển.
- Nhờ có nguồn vốn tín dụng của ngân hàng nên các danh nghiệp có điều kiện bổ sung vốn thiếu hụt tạm thời hay mở rộng nguồn vốn đảm bảo quá trình sản xuất bình thường và có thể mở rộng sản xuất, cải tiến kĩ thuật, áp dụng kỹ thuật mới để giảm chi phí và hạ giá thành tăng tính cạnh tranh. Tín dụng giúp cho các doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ, tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ giữa sản xuất, lưu thông, tiêu dùng hàng hóa.
- Trước xu hướng các nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, quan hệ hợp tác ngày càng mở rộng thì tín dụng ngân hàng trên bình diện tính dụng quốc tế ngày càng trở nên quan trọng đối với việc phát triển đất nước ngày càng trở nên hết sức quan trọng, thông qua tạo sự liên kết chuyển giao công nghệ giữa các nước trên thế giới được nhanh chóng, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh.
- Như vậy tín dụng của các ngân hàng thương mại đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng ngay cả trong nước và quốc tế.
2.2 Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng, từ đó giúp cho việc tích tụ và tập trung sản xuất:
-Tín dụng ngân hàng tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, trên cơ sở đó cho các đơn vị kinh vay. Mặt khác, quá trình đầu tư tín dụng được thực hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp lớn, những xí nghiệp có hiệu quả.
-Tín dụng ngân hàng tập trung các tín dụng nhỏ lẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn hiệu quả, bên cạnh có thể mở rộng quy mô sản xuất.
-Thông qua tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp nhận được khối lượng vốn bổ sung rất lớn để mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp ngày càng lớn hơn, buộc các doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với nhau để tăng khả năng cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, như vậy tín dụng đã góp phần thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
2.3 Tín dụng ngân hàng giúp cho việc điều hòa nguồn vốn góp phần ổn định thị trường tiền tệ, phát triển cân đối các ngành trong nền kinh tế quốc dân, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Thông qua hoạt động tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, làm cho xã hội bớt lãng phí ở nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở nơi thiếu vốn, giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả, góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng hóa và tiền vốn tăng lên, tạo sự phát triển đồng điều giữa các ngành.
Việc điều hòa nguồn vốn, đồng thời thông qua khung lãi suất quy định giúp cho chính sách tiền tệ của chính phủ được thực hiện, điều hòa lưu thông tiền tệ góp phần ổn định tiền tệ, và phát triển thị trường tài chính tiền tệ.
Hơn nữa, thông qua tín dụng ngân hàng, chính phủ có những chích sách ưu tiên hỗ trợ phát triển các vùng, miền hay các ngành then chốt, trọng điểm nhờ việc đưa ra các ưu đãi tín dụng do vậy kích thích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành này, hoặc chính phủ ưu tiên phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như nông nghiệp và ưu tiên xuất nhập khẩu…., do đó chính phủ tập trung các nguồn tín dụng để tài trợ phát triển ngành đó, từ đó tạo điều kiện cho phát triển các ngành khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng, tạo sự phát triển cân đối trong cả nước.
2.4 Tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của doanh nghiệp:
Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích việc sử dụng vốn có hiệu quả.
Khi các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn này, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng nhanh vòng quay của vốn, tạo diều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
3 lãi suất tín dụng ngân hàng:
3.1 khái niệm:
Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp, có liên quan đến chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác vá đóng vai trò như một đòn bẫy kinh tế cực kì nhạy bén, có ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp và dân cư.
Đối với ngân hàng lãi suất chính là số tiền lời nhận được hoặc phải trả cho người gửi khi cho khách hàng sử dụng vốn nhàn rỗi, hay khi nhận tiền gửi của họ.
-Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất được các nhà kinh tế học định nghĩa là cái giá để vay mượn hoặc thuê những dịch vụ tiền, vì việc vay mượn hoặc thuê những dịch vụ tiền liên quan đến việc tạo ra tín dụng. Do vậy, người ta có coi lãi suất như là giá cả của tín dụng.
- lãi suất tín dụng chính là sự cụ thể hóa của lợi tức tín dụng, nó là cái giá của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó.
3.2 các loại lãi suất tín dụng ngân hàng:
Trên thị trường thường có những lãi suất sau:
lãi suất cơ bản của ngân hàng:
Đó là lãi suất hằng năm do ngân hàng trung ương quy định trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng tín lãi suất cho các khoản vay khác nhau. Nhưng những khoản tín dụng không có bảo lãnh, được tính trên cơ sở lãi xuất cơ bản cộng với một tỉ lệ.
-lãi suất chiết khấu:
Là lãi suất được ngân hàng trung ương áp dụng để tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương mại về thương phiếu hoặc những giấy tờ có giá khác. Thông thương mỗi khi lãi suất mỗi khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên hay giảm xuống , kéo theo sự nâng hay giảm lãi suất cơ bản.
lãi suất thị trường tiền tệ :
Đây là lãi suất được thực hiện giữa các ngân hàng trên thị trường tiền tệ. trong hoạt động đi vay và cho vay có thời hạn, mức lãi suất này được ấn định theo quy luật cung cầu theo các kỳ hoàn trả khác nhau và theo dự đoán tăng giảm lãi suất trên thị trường.
-lãi suất sàn và lãi suất trần:
Là mức lãi suất cao nhất hoặc thấp nhất do ngân hàng trung ương ấn định cho các ngân hàng thương mại , để ngân hàng thương mại đưa ra mức lãi suất phù hợp trong hoạt động tín dụng của mình nhằm đảm bảo thống nhất các hoạt động tín dụng trong trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa:
lãi suất danh nghĩa: còn gọi là lãi suất bề ngoài hay lãi suất danh định, là lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa người đi vay và người cho vay về một số vốn nào đó.
Lãi suất thực : là lãi suất được vận hành trong một không gian và thời gian, trong đó giả định lạm phát luôn luôn bằng không. Hay nói cách khác, là lãi suất sau khi loại trừ sự biến động giá trị tiền tệ ( lạm phát).
Công thức: R= I -Pe
Vì vậy, trong điều kiện có lạm phát, chính lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng tới đầu tư,đến phân phối thu nhập giữa những con nợ và chủ nợ và các dòng chảy về vốn.
4 hiệu quả tín dụng :
4.1 khái niệm:
Hiệu quả tín dụng là việc quản lí và sử dụng ( cho vay) một cách hiệu quả nhất tạo ra những khoản lời cho ngân hàng và đảm bảo mục tiêu cung cấp nguồn vốn cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển qua đó góp phần vào phát triển kinh tế của toàn xã hội, bên hiệu quả của tín dụng còn thể hiện qua việc hạn chế tất cả các rủi ro có thể xãy ra đối với các khoản cho vay để tránh gây ra tổn thất cho ngân hàng.
4.2 các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dung của ngân hàng:
- Doanh số cho vay trong kì: là tổng số tiền đã cho khách hàng vay trong kì.
Danh số cho vay phản ánh kết quả về việc phát triển, mở rộng hoạt động cho vay và tốc độ tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Nếu như các yếu tố khác cố định thì doanh số cho vay càng cao phản ánh việc mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng càng tốt, ngược lại doanh số cho vay của ngân hàng giảm trong khi cố định các yếu tố khác thì hoạt động của ngân hàng là không tốt.
- chỉ tiêu dư nợ cho vay: phản ánh tổng nợ cho vay của ngân hàng tại một thời điểm nhất định thường là cuối chu kì kinh doanh. Tổng nợ cho vay bao gồm tổng dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn. Tổng nợ cho vay cao và tăng trưởng phản ánh một phần hiệu quả hoạt động tín dụng là tốt và ngược lại nếu tổng dư nợ tín dụng thấp, thì ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay hay mở rộng thị phần, khả năng tiếp thị cảu ngân hàng kém. Tuy nhiên tổng dư nợ cao chưa chắc đã phản ảnh hiệu quả tín dụng của ngân hàng là cao vì đôi khi nó là biểu hiện cho sự tăng trưởng nóng của hoạt động tín dụng, vượt quá khả năng về vốn cũng như khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng, hoặc mức dư nợ cao, hoặc tốc độ tăng trưởng nhanh do mức lãi suất cho vay của ngân hàng thấp hơn so với th