Đề tài Tín dụng thương mại ở Việt Nam

Trong thời đại nền kinh tế thị trường trở thành một nền kinh tế của toàn cầu thì doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng trong nền kinh tế, là nơi quyết định về các quá trình sản xuất được đưa ra. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải sử dụng các đầu vào để sản xuất ra đầu ra (sản phẩm, dịch vụ). Tại sao các doanh nghiệp lại cần vay vốn trong quá trình kinh doanh? Thứ nhất, quá trình kinh doanh đòi hỏi phải có khoảng cách thời gian từ khi mua nguyên liệu để đưa vào sản xuất cho đến khi bán được sản phẩm và thu tiền bán hàng. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần vốn ngắn hạn để mua nguyên vật liệu và đáp ứng các chi dùng thường ngày khác. Thứ hai, doanh nghiệp cần đầu tư mua sắm máy móc để mở rộng qui mô sản xuất. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần các nguồn vốn dài hạn hơn để có thời gian thu hồi vốn. Trong trường hợp các nguồn vốn nội tại của doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu (ngắn và dài hạn) thì doanh nghiệp cần vay vốn từ bên ngoài. Nhưng trong tình hình nền kinh tế thế giới và trong nước vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính, vấn đề tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp bị hạn chế. Mặc dù Nhà nước chủ trương kiềm chế lãi suất, nhưng lãi suất hiện nay vẫn ở mức cao nên tình hình vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp từ đầu năm 2010 tới nay rất khó khăn. Doanh nghiệp hiện tại vẫn phải vay vốn với lãi suất từ 14%/năm trở lên. Đây là một gánh nặng, vì các chính sách mà Chính phủ đã ban hành trong năm 2009 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, như hỗ trợ 4% lãi suất, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng đã hết hạn từ cuối năm 2009. Theo tổng kết sơ bộ 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy, số doanh nghiệp tiếp cận vốn vay chưa tới 50% số hồ sơ mà các doanh nghiệp có nhu cầu vay. Do đó, việc tiếp cận nguồn tín dụng thương mại được các nhà kinh doanh quan tâm nhiều hơn. quan hệ tín dụng thương mại được hình thành trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Vì có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu.

doc48 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5419 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM KHOA TÍN DỤNG ((( TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM THUỘC BỘ MÔN: NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ  GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : ĐẶNG VĂN DÂN NHÓM 1 NGUYỄN ANH VINH NGÔ THỊ MỸ LỆ TRẦN THỊ THANH PHƯƠNG NGUYỄN THỊ KIỀU OANH LÊ THỊ DIỆU HIỀN NGÔ QUỐC THẮNG HUỲNH ĐỨC HIỂN TPHCM, tháng .11.. năm 2011 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM KHOA TÍN DỤNG ((( TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM THUỘC BỘ MÔN: NHẬP MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ  GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐẶNG VĂN DÂN NHÓM 1 : NGUYỄN ANH VINH NGÔ THỊ MỸ LỆ TRẦN THỊ THANH PHƯƠNG NGUYỄN THỊ KIỀU OANH LÊ THỊ DIỆU HIỀN NGÔ QUỐC THẮNG HUỲNH ĐỨC HIỂN TPHCM, tháng .11.. năm 2011 Mục lục PHẦN MỞ ĐẦU 5 CHƯƠNG 1 6 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CÔNG CỤ CỦA THƯƠNG MẠI TÍN DỤNG 6 I. KHÁI NIỆM: 6 II. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 6 III. CÔNG CỤ LƯU THÔNG CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 7 1. Đặc điểm của thương phiếu: 8 2. Một số điểm khác nhau giữa hối phiếu và lệnh phiếu: 10 3. Tính chất của thương phiếu: 11 4. Pháp luật về thương phiếu: 11 5. Ích lợi của thương phiếu: 12 6. Nhược điểm của thương phiếu 13 IV. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 15 1. Tăng nguồn vốn kinh doanh 15 2. Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ 16 3. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, rút ngắn chu kỳ kinh doanh 16 4. Khuyến khích sản xuất kinh doanh 17 V. ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 17 VI. HẠN CHẾ CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 20 CHƯƠNG 2 21 THỰC TRẠNG TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 21 I. THỰC TRẠNG: 21 1. Khó khăn 21 2. Thuận lợi 22 3. Các giải pháp khắc phục khó khăn 22 4. Hướng phát triển tín dụng thương mại ở Việt Nam 23 II. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC 24 1. Tình hình 24 2. Những vấn đề của TDTM trong nước 25 3. Cách khắc phục 28 III. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 30 1. Tình hình 30 2. TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ 32 3. Cách khắc phục 34 CHƯƠNG 3 36 TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG CÁC LUẬT ĐỊNH Ở VIỆT NAM 36 I. Sự cần thiết ban hành luật các công cụ chuyển nhượng 36 II. Nội dung cơ bản của luật các công cụ chuyển nhượng 39 1. Bố cục 39 2. Những nội dung cơ bản về hối phiếu 40 PHẦN MỞ ĐẦU Trong thời đại nền kinh tế thị trường trở thành một nền kinh tế của toàn cầu thì doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng trong nền kinh tế, là nơi quyết định về các quá trình sản xuất được đưa ra. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải sử dụng các đầu vào để sản xuất ra đầu ra (sản phẩm, dịch vụ). Tại sao các doanh nghiệp lại cần vay vốn trong quá trình kinh doanh? Thứ nhất, quá trình kinh doanh đòi hỏi phải có khoảng cách thời gian từ khi mua nguyên liệu để đưa vào sản xuất cho đến khi bán được sản phẩm và thu tiền bán hàng. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần vốn ngắn hạn để mua nguyên vật liệu và đáp ứng các chi dùng thường ngày khác. Thứ hai, doanh nghiệp cần đầu tư mua sắm máy móc để mở rộng qui mô sản xuất. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần các nguồn vốn dài hạn hơn để có thời gian thu hồi vốn. Trong trường hợp các nguồn vốn nội tại của doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu (ngắn và dài hạn) thì doanh nghiệp cần vay vốn từ bên ngoài. Nhưng trong tình hình nền kinh tế thế giới và trong nước vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính, vấn đề tiếp cận nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp bị hạn chế. Mặc dù Nhà nước chủ trương kiềm chế lãi suất, nhưng lãi suất hiện nay vẫn ở mức cao nên tình hình vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp từ đầu năm 2010 tới nay rất khó khăn. Doanh nghiệp hiện tại vẫn phải vay vốn với lãi suất từ 14%/năm trở lên. Đây là một gánh nặng, vì các chính sách mà Chính phủ đã ban hành trong năm 2009 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, như hỗ trợ 4% lãi suất, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng…đã hết hạn từ cuối năm 2009. Theo tổng kết sơ bộ 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy, số doanh nghiệp tiếp cận vốn vay chưa tới 50% số hồ sơ mà các doanh nghiệp có nhu cầu vay. Do đó, việc tiếp cận nguồn tín dụng thương mại được các nhà kinh doanh quan tâm nhiều hơn. quan hệ tín dụng thương mại được hình thành trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Vì có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CÔNG CỤ CỦA THƯƠNG MẠI TÍN DỤNG KHÁI NIỆM: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI - Vốn cho vay theo tín dụng thương mại là hàng hóa hay một bộ phận của vốn sản xuất chuẩn bị chuyển hóa thành tiền, chưa phải là tiền nhàn rỗi. - Người cho vay (chủ nợ) và người đi vay (con nợ) đều là những doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. - Khối lượng tín dụng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổng giá trị của khối lượng hàng hóa được đưa ra mua bán chịu. - Chủ thể tham gia là các doanh nghiệp, thông qua việc trao đổi hàng hóa dịch vụ,thông thường không có khâu trung gian đứng giữa người sử dụng vốn và người có vốn. - Tín dụng thương mại phát triển và vận động theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và góp phần làm phát triển sản xuất kinh doanh do nó rút ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh, giảm chi phí sản xuất kinh doanh => quy mô bịhạn chế và thông thường là tín dụng ngắn hạn. - Tín dụng thương mại thông thường không mất chi phí sử dụng vốn (cost of capital) do hoạt động cấp tín dụng không có lãi trong một khoảng thời gian nhất định, một số trường hợp bên nợ còn được hưởng lãi chiết khấu trả sớm. Hình thức thể hiện thông thường của tín dụng thương mại là hợp đồng trả chậm, thương phiếu (hối phiếu và lệnh phiếu). Trong đó, hối phiếu là giấy đòi tiền vô điều kiện do người bán phát hành, lệnh phiếu là giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người mua phát hành. Một điều khoản tín dụng thương mại mà các doanh nghiệp thường thỏa thuận khi sử dụng hình thức tín dụng này là: “2/10 Net 30” có nghĩa là nếu trả tiền mặt trong vòng 10 ngày kể từ khi mua hàng, người mua sẽ được chiết khấu 2% trên giá cả hàng bán, người mua sẽ phải trả toàn bộ giá bán sau 10 ngày và được trả chậm trong vòng 30 ngày. CÔNG CỤ LƯU THÔNG CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI Để đảm bảo người mua chịu trả nợ đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay “thương phiếu”. Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.  Đặc điểm của thương phiếu: Dựa trên cơ sở người lập: thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:  Hối phiếu: là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu người mua chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.  Nội dung hối phiếu: -Tiêu đề :”Lệnh phiếu “ ghi ở bề mặt của lệnh phiếu -Một cam kết vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định -Thời hạn trả tiền. -Địa điểm trả tiền -Tên người hưởng lợi hoặc tên của người ra lệnh thực hiện việc thanh toán -Địa điểm,ngày ký phát lệnh phiếu -Chữ ký người ký phát lệnh phiếu.   Hình: Hối phiếu Lệnh phiếu: là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng. Trên lệnh phiếu kì hạn được quy định rõ Một lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát cam kết thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi. Lệnh phiếu cần có sự bảo lãnh của ngân hàng hoặc công ty tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán của lệnh phiếu. Nội dung lệnh phiếu: -Tiêu đề :”Lệnh phiếu “ ghi ở bề mặt của lệnh phiếu -Một cam kết vô điều kiện để thanh toán một số tiền nhất định -Thời hạn trả tiền. -Địa điểm trả tiền -Tên người hưởng lợi hoặc tên của người ra lệnh thực hiện việc thanh toán -Địa điểm,ngày ký phát lệnh phiếu -Chữ ký người ký phát lệnh phiếu. Lệnh phiếu trả ngay: Lệnh phiếu có kỳ hạn: 1.2 Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng: có thể phân chia thương phiếu thành ba loại Thương phiếu vô danh:là loại thương phiếu không ghi tên người hưởng thụ.Ai cầm thương phiếu một cách hợp pháp người đó là người hưởng thụ. Thương phiếu ký danh:là loại thương phiếu có ghi tên người hưởng thụ và người này được quyền chuyển nhượng cho người khác. Thương phiếu định danh: cũng là thương phiếu có ghi tên của người hưởng thụ nhưng khác với thương phiếu ký danh là không được chuyển nhượng cho người khác Một số điểm khác nhau giữa hối phiếu và lệnh phiếu: + Hối phiếu do chủ nợ lập, còn lệnh phiếu do người thiếu nợ lập + Hối phiếu thông thường có 3 người quan hệ với nhau: Người phát hành hối phiếu (người phát lệnh), người trả tiền theo hối phiếu (người thu lệnh) và người hưởng thụ. +Còn lệnh phiếu thường có 2 người liên hệ: người phát lệnh phiếu và người hưởng thụ. +Hối phiếu thường gồm hai bản, lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra để chuyển cho người hưởng lợi lệnh phiếu đó. Tính chất của thương phiếu: - Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người trả tiền.   - Tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.  - Tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. tính chất này khiến thương phiếu trở thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và mệnh giá thương phiếu.  Pháp luật về thương phiếu: Pháp luật về thương phiếu thương mại xuất hiện từ lâu (khoảng cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII) ở các nước Phương Tây, đáp ứng các yêu cầu tất yếu, khách quan từ hoạt thương mại. và ngày nay, thương phiếu được xem là một công cụ tín dụng, một phương tiện thanh toán hữu hiệu trong hoạt động thương mại. Xuất phát từ vai trò kinh tế của thương phiếu, các nước đã chú trọng xây dựng một cách có hệ thống và tương đối cụ thể các quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của thương phiếu. không chỉ dừng lại ở hệ thống pháp luật trong nước, trên phương diện quốc tế, pháp luật thương mại quốc tế cũng đòi hỏi phải có sự thống nhất về luật pháp liên quan đến thương phiếu, trong chừng mực có thể đạt được, để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của thương nhân cũng như để bảo đảm một cách hữu hiệu sự tồn tại và hoạt động của thương phiếu. Điển hình là Công ước Geneve ngày 7 tháng 6 năm 1930 về hối phiếu và lệnh phiếu đã được ký kết. Từ đó đến nay, pháp luật thương mại quốc tế đã có rất nhiều các văn bản điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thương phiếu. Hơn nữa, điều này nhằm đáp ứng với tình hình phát triển kinh tế thế giới nói chung. ở Việt Nam, trong thời kỳ áp dụng cơ chế tập trung, bao cấp. Nhà nước can thiệp rất sâu trong hoạt động kinh tế. Các tổ chức kinh tế, công dân chưa được tự do kinh doanh: pháp luật kinh doanh nói chung cũng như pháp luật thương mại chưa được chú trọng. Điều này chỉ thật sự được đổi mới và phát triển từ khi Đảng và Nhà nước chuyển hướng phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Trong hoàn cảnh đó, thương phiếu và pháp luật thương phiếu chỉ được đề cập trong những năm gần đây: Luật Thương Mại 1997. Pháp lệnh Thương phiếu được UBTVQH thông qua ngày 24/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/07/2000, và Nghị định số 32/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/07/2001 (gọi tắt là NĐ 32) hướng dẫn chi tiết thi hành pháp lệnh thương phiếu. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật vừa nêu vẫn được coi là chưa đủ để có một mội trường pháp lý thuận tiện cho thương phiếu hoạt động Ích lợi của thương phiếu: Thứ nhất, nhờ vào tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ. Thứ hai, nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp. Thứ ba, thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục nguồn vốn của mình. Thứ tư, thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông. Thứ năm, trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng. Và cuối cùng, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Nhược điểm của thương phiếu Nhược điểm thứ nhất, do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo. Nhược điểm thứ hai, với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu. Nhược điểm thứ ba, quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau. Tuy vậy, do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân hàng nên những khiếm khuyết nêu trên của tín dụng thương mại và của sự vận dụng thương phiếu sẽ giảm đến mức xem như không đáng kể. Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu Chiết khấu thương phiếu là một hình thức cấp tín dụng. Thương phiếu là một công cụ tài chính xuất hiện trong mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, nếu mọi chuyện xảy ra bình thường, tức là đến ngày đáo hạn thì người thụ hưởng mang thương phiếu đến đòi con nợ (người có trách nhiệm thanh toán cho tờ thương phiếu đó) để nhận tiền, thì ngân hàng sẽ chẳng có việc gì ở đây. Nhưng nếu người thụ hưởng cần tiền và muốn nhận tiền trước thời hạn thì ngân hàng sẽ tham gia vào và thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu bằng cách mua lại tờ thương phiếu đó với giá thấp hơn giá trị có thể nhận được từ tờ thương phiếu (phần chênh lệch chính là tiền lãi ngân hàng thu được). Khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này mang lại một số lợi ích cơ bản như sau: * Đối với ngân hàng: + Đây là một nghiệp vụ cấp tín dụng khá an toàn do: - Tính thanh khoản của thương phiếu cao (ngắn hạn, dễ chuyển đổi), nên ngân hàng có thể chủ động sử dụng khi nắm giữ thương phiếu, không bị ứ đọng vốn lâu. - Theo luật thì ngân hàng có quyền truy đòi tất cả các đối tượng có mặt trên tấm thương phiếu (kể cả người đã chuyển nhượng thương phiếu đó)chứ không riêng gì người có trách nhiệm chi trả ghi trong thương phiếu (chiết khấu có truy đòi). Do đó rủi ro tín dụng sẽ thấp đi do có nhiếu người phải chịu trách nhiệm trả nợ hơn. + Về mặt quản trị ngân hàng thì đây là một dạng dự trữ thứ cấp khá tốt vừa đảm bảo thanh khoản lại vừa sinh lãi ở mức chấp nhận được. * Đối với doanh nghiệp: + Đảm bảo nguồn vốn kết hợp kinh doanh bình thường: Thương phiếu không phải là tiền vì cần phải chờ tới ngày đáo hạn người thụ hưởng mới nhận được tiền, trong khi đó tiền bán chịu chính là doanh thu của doanh nghiệp cho nên nó cần phải quay vòng nhanh để doanh nghiệp trang trải chi phí và hoạt động bình thường. Khi doanh nghiệp cần vốn mà tờ thương phiếu lại chưa đến hạn thanh toán thì doanh nghiệp có thể nhờ ngân hàng chiết khấu tờ thương phiếu đó để có tiền sử dụng vào sản xuất. + Nghiệp vụ CKTP giúp gia tăng quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp: Vì giờ đây với nghiệp vụ CKTP của ngân hàng doanh nghiệp sẵn lòng bán chịu hơn do có thể chiết khấu nhận được tiền trước ngày đáo hạn tờ thương phiếu khi cần tiền, chứ không cần giữ mãi tờ thương phiếu đó. + Nghiệp vụ CKTP giúp gia tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho các doanh nghiệp nhỏ: Có điều này là do khi ngân hàng chiết khấu thương phiếu thì người thanh toán thương phiếu mới chính là đối tượng chủ yếu mà ngân hàng quan tâm khi cấp tín dụng, mặc dù chính chủ nợ, hay người thụ hưởng mới là người mang thương phiếu đi chiết khấu. Cho nên nếu người thanh toán là công ty lớn, hoạt động hiệu quả thì sẽ dễ dàng được ngân hàng chấp nhận chiết khấu. Ví dụ như: Nếu một công ty ABC (rất nhỏ, chưa danh tiếng) bán chịu một lô hàng cho công ty lớn như công ty sữa Vinamilk và lập một hối phiếu, sau đó Vinamilk ký bảo đảm lên hối phiếu đó. Thì khi công ty ABC mang hối phiếu đó đến ngân hàng để chiết khấu, có thể dựa vào danh tiếng, năng lực hoạt động tốt của Vinamilk thì ngân hàng dễ chấp nhận tờ hối phiếu đó hơn. Và nhờ đó ABC dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn lý tưởng bậc nhất trong nền kinh tế là từ ngân hàng mà không tốn quá nhiều chi phí và thời gian ( còn tại sao nói nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn lý tưởng trong nền kinh tế thì chắc là các bạn biết rồi). * Đối với nền kinh tế: + Cấp tín dụng bằng CKTP là một hình thức cấp tín dụng an toàn cho nền kinh tế vì khi cấp tín dụng bằng chiết khấu thương phiếu sẽ đảm bảo nguyên tắc hàng - tiền do khi tiền tung ra từ ngân hàng thì trong nền kinh tế cũng đã có sẵn một lượng hàng hoá tương ứng đang luân chuyển, do đó giảm thiểu áp lực lạm phát. Cũng cần chú ý rằng hàng hoá mua chịu của doanh nghiệp chủ yếu là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cho nên, cấp tín dụng bằng hình thức CKTP tạo điều kiện tốt cho sản xuất phát triển gia tăng hàng hoá cho nền kinh tế. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tăng nguồn vốn kinh doanh Nền kinh tế nước ta còn nghèo, vốn cho kinh doanh hạn chế, đòi hỏi phải có những hình thức tạo vốn. Vấn đề này càng bức thiết hơn với các đơn vị buôn bán nhỏ. Nhờ có TDTM, sản xuất kinh doanh ổn định và mở rộng. Tuy nhiên không nên lạm dụng TDTM vì thời hạn tín dụng thương mại và dễ dẫn đễn vỡ nợ hàng loạt. Trong tín dụng thương mại, các nhà sản xuất có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi để sản xuất, làm tăng
Luận văn liên quan