Đề tài Tính đa dạng trong sinh hoạt kinh tế và văn hóa của các dân tộc

Các tộc người thiểu số cư trú ở Việt Nam dù cư trú hàng ngàn năm hay mới vài ba trăm năm, dù đông hay ít người mỗi tộc người đều gắn bó số phận mình với lịch sử dân tộc trong nước. Các tộc người đều cùng nhau tham gia và bảo vệ Tổ quốc chung. Đặc biệt những thử cách sống còn của giặt ngoại xâm, thiên tai khắc nghiệt liên tiếp xảy ra làm cho các tộc người xích lại gần nhau hơn. Họ đã phải dựa vào nhau để chống chọi, để tồn tại và phát triển. Trải qua quá trình đó, các tộc người đã chung đúc nên truyền thống đoàn kết bền vững, hình thành nên một đại gia đình Việt Nam của các tộc người anh em. Trong bức tranh đa dạng và phong phú ấy, văn hoá các tộc người Việt Nam là những mảng màu đặc sắc và quý hiếm. Góp phần vào kho tàng văn hoá phong phú và đa dạng của văn hoá Việt Nam phải kể đến nhóm các tộc người thuộc Ngữ hệ Nam Á. Ngữ hệ Nam Á ở Việt Nam gồm 32 tộc người và cũng là 32 ngôn ngữ khác nhau. Chính vì như vậy nên về sinh hoạt kinh tế và văn hoá của các tộc người cũng rất khác nhau và mang tính đa dạng phong phú. Dải đất hình chữ S còn vô vàn những điều thú vị cần khám phá và tìm hiểu. Các tộc người thiểu số phân bố từ Bắc chí Nam, mỗi tộc người có nét sinh hoạt kinh tế cực kì khác biệt, họ sống bên cạnh hay xen kẽ với những tộc người chủ thể; mặc dù vậy họ vẫn giữ được nét riêng của tộc người họ.

docx38 trang | Chia sẻ: tuantu31 | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính đa dạng trong sinh hoạt kinh tế và văn hóa của các dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU Các tộc người thiểu số cư trú ở Việt Nam dù cư trú hàng ngàn năm hay mới vài ba trăm năm, dù đông hay ít người mỗi tộc người đều gắn bó số phận mình với lịch sử dân tộc trong nước. Các tộc người đều cùng nhau tham gia và bảo vệ Tổ quốc chung. Đặc biệt những thử cách sống còn của giặt ngoại xâm, thiên tai khắc nghiệt liên tiếp xảy ra làm cho các tộc người xích lại gần nhau hơn. Họ đã phải dựa vào nhau để chống chọi, để tồn tại và phát triển. Trải qua quá trình đó, các tộc người đã chung đúc nên truyền thống đoàn kết bền vững, hình thành nên một đại gia đình Việt Nam của các tộc người anh em. Trong bức tranh đa dạng và phong phú ấy, văn hoá các tộc người Việt Nam là những mảng màu đặc sắc và quý hiếm. Góp phần vào kho tàng văn hoá phong phú và đa dạng của văn hoá Việt Nam phải kể đến nhóm các tộc người thuộc Ngữ hệ Nam Á. Ngữ hệ Nam Á ở Việt Nam gồm 32 tộc người và cũng là 32 ngôn ngữ khác nhau. Chính vì như vậy nên về sinh hoạt kinh tế và văn hoá của các tộc người cũng rất khác nhau và mang tính đa dạng phong phú. Dải đất hình chữ S còn vô vàn những điều thú vị cần khám phá và tìm hiểu. Các tộc người thiểu số phân bố từ Bắc chí Nam, mỗi tộc người có nét sinh hoạt kinh tế cực kì khác biệt, họ sống bên cạnh hay xen kẽ với những tộc người chủ thể; mặc dù vậy họ vẫn giữ được nét riêng của tộc người họ. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về cách ăn, mặc, ởhay nói tóm gọn là là tất cả những gì thuộc về thường ngày của họ và văn hoá của họ, chắc chắn sẽ có nhiều thứ mình chưa biết và rất thú vị. CHƯƠNG 1 VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT-MƯỜNG NGƯỜI CHỨT I. Nguồn gốc lịch sử và địa bàn cư trú 1. Nguồn gốc lịch sử Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. 2. Địa bàn cư trú Quê hương của người Chứt vẫn ở Bố Trạch, Quảng Trạch. Sau này họ di tán phần lớn lên vùng núi Minh Hóa, Bố Trạch. II. Sinh hoạt kinh tế Tộc người Chứt vốn là một cư dân nông nghiệp, nhưng do bị phân tán thành những nhóm nhỏ, sống trong điều kiện địa lý gần như tách biệt nhau, nên sinh hoạt kinh tế của các nhóm người Chứt có khác nhau. 1. Người Chứt ở các thung lũng Nhóm người Chứt này chủ yếu làm ruộng nước, bên cạnh đó còn làm ruộng vãi, rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm, chăn nuôi. Số người Chứt này sống ở các thung lũng tương đối bằng phẳng , nơi có khả năng phát triển kinh tế ruộng nước, ruộng vãi, với những thửa ruộng bậc thang nằm trong hệ thống đất dốc tụ, hoặc đất bãi bồi cổ. Vì thế, họ có điều kiện phát triển một nền kinh tế đa dạng nhiều mặt. Đó là lý do căn bản dẫn đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhóm người này tương đối ổn định và theo chiều hướng phát triển. 2. Người Chứt ở các vùng cao Bộ phận người Chứt ở Hóa Sơn, Thượng Hóa, Dân Hóa gần sát biên giới Việt-Lào làm rẫy, làm ruộng vãi , săn bắn, đánh cá, hái lượm, chăn nuôi. Người Chứt thường phát triển kinh tế nương rẫy, kết hợp với kinh tế ruộng vãi, chăn nuôi, nên đời sống của họ tương đối ổn định. Những năm khí hậu thuận hòa nguồn sản xuất lương thực lúa, ngô của họ đảm bảo 8 đến 9 tháng, những năm khí hậu khắc nghiệt, thì nguồn lương thực chỉ đủ ăn 6 đến 9 tháng. Thời gian còn lại đồng bào thường ăn sắn, khoai và các loại sản vật khác của kinh tế tước đoạt trong những khu rừng nhiệt đới. Người Chứt ở vùng cao nhưng họ thường định cư ở nhưng nơi thung lũng hẹp, đất tương đối bằng phẳng để làm ruộng khô, chăn nuôi và nương rẫy còn nhóm Mày, Arem, Rục, Mã Liềng sống ở vùng cao, trên các sườn dốc không có điều kiện làm ruộng khô, nên thường du canh, du cư với nền kinh tế nương rẫy quá lạc hậu, chăn nuôi cũng không phát triển, và vì thế đời sống của họ cho đến nay còn rất đói nghèo, lạc hậu. Như vậy , cơ cấu kinh tế của các nhóm người Chứt bao gồm những hình thái ruộng nước, nương rẫy, chăn nuôi và các nghề phụ gia đình, kinh tế khai thác ( săn bắn, đánh cá, hái lượm). III. Văn hóa vật chất Trạng thái cư trú Làng bản: sống du canh du cư trong rừng núi. Họ phải đương đầu với mãnh thú để giành giật từng hang động rèm đá. Nhưng do đặc điểm kinh tế du canh, du cư, hang động không đảm bảo cho sự di chuyển thường xuyên của họ, nên những túp lều tạm bợ, lợp bằng lá cây rừng lại mọc lên phổ biến. Về sau do sự phát triển của sức sản xuất, họ có thể định canh, định cư trong một thời gian nhất định, nên mái nhà tương đối bền vững được mọc bên những triền núi cao, đầu nguồn nước. Còn bản người Chứt thường ở những vùng thung lũng thấp, tương đối bằng phẳng, nơi có điều kiện phát triển ruộng nước, ruộng vãi và nương rẫy. Thường khi vùng đất xung quanh bản, nguồn lợi của tự nhiên cạn kiệt, như cây nhúc, cây nghèn đã hết, thú vật, chim muông nghèo nàn, đất đai khô cằn hoặc trong bản có người chết bất đắc kỳ tử, có dịch bệnh triền miên là đồng bào lại dời bản đi nơi khác. Nhà cửa: Nhà cửa của người Chứt mang dáng dấp của một tộc người sinh sống trong hoàn cảnh địa lý quá khắc nghiệt. các bước tiến hành làm nhà của họ rất đơn giản. Lúc đầu gia đình tự chuẩn bị và tập trung những nguyên vật liệu như gỗ tre, nứa, tranh, mây, dây buộc đem đến mảnh đất đã chọn. Sau đó chủ nhà chọn ngày tốt để tiến hành làm nhà. Những ngày tốt là những ngày chẵn trong tháng. Riêng tháng bảy là người Chứt không làm nhà, vì cho tháng bảy là tháng xấu. Sau khi định ngày chủ nhà báo cho dân bản biết để mọi người cùng tham gia. Ở người Chứt có hai loại nhà: nhà sàn và nhà đất. Mỗi loại nhà gắn liền với từng nhóm người nhất định: Y phục và trang sức Trang phục của người Chứt còn rất thô sơ. Trước đây , trong hoàn cảnh sống quá khắc nghiệt, đa số các nhóm người Chứt đều để tóc dài, búi tóc sau gáy. Ở họ trang sức hầu như không có, còn trang phục hết sức nghèo nàn, đơn giản. Đàn ông, đàn bà đều lấy vỏ cây làm áo khố. Cây thường chọn để lấy vỏ làm áo, váy là những sui, rang, si, dò Trong thời gian gần đây, với sự vận động định canh định cư, người Chứt chịu sự tác động mạnh mẽ về y phục của người Nguồn và y phục của nhóm Khùa thuộc tộc người Vân Kiều. Nhóm người Sách chịu ảnh hưởng y phục của người Việt. Phụ nữ mang loại váy kín màu đen không có hoa văn, có dây rút ở đầu váy, giống như váy của người Việt. Về trang sức, ở nhóm người Sách người phụ nữ thường đeo loại hoa tai bằng bạc hay đồng và chuỗi hạt cườm mua được ở người Việt hay người Lào, ít thấy trường hợp phụ nữ đeo vòng. Người đàn bà Rục, Arem, Mã Liềng trước đây thường đeo những vòng vỏ ốc núi ở cổ như chuỗi hạt cườm của người Việt. Đồng bào quan niệm người phụ nữ đeo vòng ốc vào sẽ gặp may mắn trong công việc hái lượm. Và đàn ông thường đeo những vuốt hổ, răng nanh lợn rừng. Đồng bào quan niệm những vật đó là “ bùa hộ mệnh”, giúp cho họ tránh được thú dữ, gặp may mắn trong săn bắn. Các hình thức ăn, uống, hút Người Chứt nấu cơm, ngô, sắn bằng phương pháp “ làm pồi”. Cho hạt ngô vào nước ngâm 3-4 tiếng, sau đó vớt hạt ngô ra khỏi nước, để ráo cho vào nồi giã thành bột. Sắn tươi gọt vỏ, rửa sạch, chặt thành nhiều miếng nhỏ, cho vào cối giã nhỏ. Lúa cho vào cối giã nhỏ cả gạo và vỏ trấu bên ngoài. Sau khi đã đâm nhỏ lúa, ngô, sắn, đồng bào bắt đầu nấu pồi. Người Chứt thường uống nước chè xanh ( pha thêm ít muối ), nước lã, hoặc nước lá ngái, lá cây rừng và uống rượu. Người Chứt rất thích hút thuốc và nghiện thuốc. Người Chứt tự trồng lấy cây thuốc ở trong các nương rẫy. Thuốc được quấn theo kiểu loa kèn, một đầu to, một đầu nhỏ. Thường trẻ em từ 6 đến 7 tuổi đã bắt đầu hút và hút hầu như liên tục cả ngày. Các công cụ sinh hoạt gia đình Những công cụ dùng trong săn bắn và hái lượm như nỏ, giáo, gùi nhỏ, giỏ Những công cụ liên quan đến kinh tế sản xuất: Tiếp nhận các dụng cụ sản xuất do Nhà nước cung cấp và trao đổi với người Nguồn. Đó là những chiếc rìu, rựa, liềm, cuốc, lưỡi cày phục vụ cho sản xuất nương rẫy và ruộng nước. Chỉ có chiếc gậy chọc lỗ là dụng cụ duy nhất liên quan đến kinh tế sản xuất do đồng bào tự làm lấy. Những dụng cụ sinh hoạt hằng ngày trong gia đình như cối, chày, ống nấu pồi, thúng, mủng, mẹt. Những giá trị văn hóa vật chất của người Chứt hết sức nghèo nàn về chủng loại và ít ỏi về số lượng. Nó đang bị mai một dần cùng thời gian. Điều đó phản ánh một đời sống vật chất hết sức thấp kém của tộc người này. IV. Văn hóa tinh thần 1.Tôn giáo tín ngưỡng 1.1 Cõi sống và cõi chết trong quan niệm cổ truyền của người Chứt Hầu như xung quanh họ, từ núi rừng,, sông suối, trời đất đến nhà cửa đâu đâu cũng có những lực lượng “cu muých” ( thần ma) trú ngụ: các loại “ thần ma” cai quản núi rừng, ðất ðai mà con ngýời ðang ở. Những “ thần ma” thýờng “ ðòi ăn”, nên làm bất cứ việc gì, đồng bào cũng cúng bái, dâng lễ vật. Trong các loại ma, ma trời , ma nhà, ma rú, ma suối thì ma trời được coi là quan trọng nhất, cai quản toàn bộ các loại ma khác. Nhưng thực tế ma ảnh hưởng đến đồng bào nhất là ma nhà. -Chính những lực lượng siêu nhiên đó là nguyên nhân của mọi may mắn, thành đạt trong lao động sản xuất, trong cuộc sống hằng ngày, và cũng là nguyên nhân của mọi rủi ro, tai họa như mất mùa, đói kém, ốm đau,Muốn tăng thêm may mắn, hạn chế rủi ro, theo đồng bào không có cách nào khác là phải cũng tế thường xuyên. Như vậy, thế giới quan của người Chứt bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh. Theo đồng bào không gian vũ trụ chia làm ba phần. + Tầng trên “Plời” là thế giới cao xa của vũ trụ. + Tầng giữa là thế giới mặt đất, nơi con người và vạn vật sinh sống. + Tầng dưới là thế giới dành riêng cho những người xấu. Cõi sống và cõi chết theo quan niệm cổ truyền của người Chứt biểu hiện một sự nhận thức sai lệch thế giới tự nhiên và con người. Coi mọi vật đều có linh hồn. Từ nhận thức sai lệch đó dẫn đến những hoạt động tôn giáo tín ngưỡng như cũng tế, dâng lễ vật, ma thuật rất phức tạp. Điều đó, gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến công việc xây dựng xã hội mới ở người Chứt. 1.2 Các nghi thức thờ cúng Những hình thức thờ cúng có liên quan đến nghề săn bắn, đến chu kỳ lao động nương rẫy và trồng lúa nước như sau: + Những hình thức thờ cúng liên quan đến nghề săn bắn Hàng năm cứ đến tháng 9 Pự Cavel chọn ngày tốt rồi cử những người tài giỏi đi săn thú rừng. Thú rừng săn được người ta vứt bỏ phần ruột, còn để nguyên cả con quay chín trên bép lửa. Mọi thành viên trong cavel cùng mang theo lễ vật như bột nhúng, củ mài, củ sắn, gạo nếp, rượu đến một địa điểm đã định sẵn, trên mỗi bãi đất bằng gần cavel. Lễ cúng thường tổ chức vào buổi sáng khi Chôblú và Pự Cavel cúng xong, người ta cắt đầu, tai, đuôi, bốn chân đưa vào rừng, chỗ những người đàn ông đã bắt được thú để cúng thần săn, mong thần phù hộ cho công việc được may mắn. + Những nghi thức liên quan đến chu kỳ lao động nương rẫy. Lễ Kloống: là lễ tìm đất để làm nương rẫy. Lễ lấp lỗ: là lễ cúng được tiến hành sau công việc chọc lỗ tra hạt đã hoàn tất. Lễ cơm mới: là lễ cầu xin thần lúa và các vị thần linh khác cho phép thu hoạch mùa màng. 1.3 Các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan đến chu kỳ một đời người Sinh đẻ: Người đàn bà sau khi sinh xong có thể tự mình chăm nom lấy đứa trẻ và tự chuẩn bị những đồ ăn, thức uống. Người Chứt quan niệm rằng, nếu người đàn bà sinh đẻ tại nhà hay làng bản , thì sẽ gây nhiều tai họa cho những người thân và dân làng. Vì người đàn bà khi sinh mang nhiều vía xấu, khi đứa trẻ mới ra đời, nó được tắm rửa sạch sẽ để làm sạch vía, đuổi vía xấu ra khỏi thân thể của nó. Sau 30 ngày hai vợ chồng nấu nước lá thơm đổ lên hòn đá xông rồi mới được về nhà. Khi về đến nhà người chồng chuẩn bị những lễ vật như rượu, thịt, cơm để cúng báo cho ông bà, tổ tiên, thần linh biết về đứa trẻ, một thành viên mới trong nhà của mình. Cưới hỏi: Trai gái được tư do tìm hiểu yêu đương. Khi đôi trai gái đã tìm hiểu nhau đến độ chín muồi thì báo với gia đình để chuẩn bị làm lễ cưới. Công việc đầu tiên là chọn ngày tốt. Nhà trai mang sang nhà gái những lễ vật như nồi, rìu, rựa, gạo và đặc biệt có một con lợn để cúng mời thần linh về chứng kiến tình yêu của họ. Làm nhà: Chủ nhà chọn ngày lành tháng tốt rồi tự mình dựng cột cái lên trước, sau đó mới nhờ bà con giúp đỡ và chỉ có chủ nhà mới được phép ngồi phía trên cột coloốc để lợp, khi nhà đã hoàn tất, chủ nhà tự tay nhen lên một bếp lửa, bếp lửa đó phải được cháy liên tục ba ngày ba đêm. Sau đó chủ nhà tự mình hoặc mời thầy rang, thầy xây ( thầy cúng ) tổ chức lễ cúng để xin phép ông, bà thần linh phù hộ cho gia đình được may mắn trong cuộc sống. Tang ma: Ở đa số nhóm người Chứt, khi ba mẹ, ông bà chết, con cháu báo cho bà con dân bản biết. Người chết được bó chiếu để dọc giữa nhà trước cửa buồng chủ, đầu quay về hướng cuối nhà. Người chết được để ở nhà ba ngày. Trong thời gian đó con cháu làm lợn, gà cúng mời người đã chết và các thần linh, tổ tiên về dự lễ. 1.4 Các hình thức ma thuật Ma thuật chữa bệnh: Khi đau ốm họ mời thầy cũng đến bói tìm nguyên nhân gây bệnh và sau đó tiến hành lễ dắc si. Thầy cúng đầu đội vòng hoa rừng, tay cầm hai ống nước kéo đi kéo lại và đọc rầm rầm lời cúng gọi các ma về nhận lễ. lễ vật gồm 7 cái bánh, một con gà, một đĩa trầu cau. Sau khi cúng xong thầy cúng buộc dây chỉ vào tay người ốm để giữ vái lại. Đối với trẻ em, người ta vắt một nắm cơm nhỏ và buộc chỉ ( khi qua núi khe, mà sau đó bị đau, thì phải mang lễ vật đến nơi núi khe đó để gọi vái về ). Sau khi cúng gọi vái về, chủ nhà phải làm cơm, canh, rượu cúng nhờ ma nhà phù hộ cho người đau. Việc cúng vái không quá cầu kỳ, nếu nhà nghèo quá thì chỉ đốt trầm hương với nước suối là đủ. Ông thầy cúng cũng không đòi hỏi lễ vật gì, chủ nhà có cái gì biếu cái đó. Ma thuật làm hại: Từ chỗ sợ hãi ma thuật làm hại, người Chứt tin rằng có ma người sống ( Cha nanh hay cha vạ). Đó là việc đồng bào gán cho một số người hoặc một số gia đình nào đó có ma đáng sợ nói trên. Người bị gán là “cha nanh”, “cha vạ” là người “xấu mồm, xấu miệng”, hay quở mắng nói năng người khác, mà ngẫu nhiên sau đó người bị quở mắng đau ốm, hoặc chiêm bao thấy một người nào đó đến làm hại mình. Đặc biệt người Chứt có quan niệm kẻ lười nhác là “Cha nanh”. Đồng bào cho rằng, người “ Cha nanh” có một thời kì đi học phù phép, phù chú và có thuốc độc. Họ chính là kẻ gây tai họa cho dân làng là nguồn gốc đau ốm, bệnh tật, mất mùa nên bị mọi người căm ghét xa lánh. Đồng bào cho rằng “ cha nanh” trông thấy người ốm sẽ làm cho người ốm nặng thêm, thấy quả đang chín sẽ làm cho nó thối, thấy trẻ em sẽ làm cho nó đauBản thân những người xấu số mang tiếng có ma đó rất khổ tâm. Họ bị coi là người rất nguy hiểm “ không trong sạch” con cái của họ khó lấy vợ, lấy chồng ( vì con ma đó sẽ theo sang gia đình khác ). Lợi dụng lòng tin đó, một số kẻ xấu tự gán cho thành viên nào đó trong làng ( thường là những ngừoi quá nghèo đói hoặc là người có biệt tài nhất định ) là “cha nanh, cha vạ” chuyện có ma đi gây hại người khác. Đồng bào quan niệm rằng, sỡ dĩ có ma người sống, là vì những gia đình có người chết do không lo việc ma chay chu đáo nên hồn vía người chết không có nơi ăn , chốn ở, sống bơ vơ trên trần gian, lâu ngày thành “cha nanh, cha vạ” nhập vào con cháu. * Văn nghệ dân gian - Truyện cổ là một lọai hình chiếm ưu thế trong kho tàng văn học dân gian của người Chứt . Nó thể hiện quan niệm con người về vũ trụ. Về cuộc đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, về khát vọng của con người vươn đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc. - Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Chứt, những làn điệu dân ca nổi lên như một loại hình đặc sắc đượm tính chất trữ tình. Với nội dung phong phú dân ca được sử dụng trong nhiều khung cảnh. Bằng lời ca dịu ngọt, mang giai điệu trầm lắng, đi vào tâm thức của con người, phản ánh tình yêu lao động, yêu tự do và tình yêu lứa đôi, tha thiết. Dân ca người Chứt gắn bó một cách tự nhiên với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào. - Nhạc cụ dân gian: Nhạc cụ có trong sinh hoạt tinh thần của người Chứt cũng khá phong phú. Tuy nhiên hiện nay, những loại hình nhạc cụ ở đồng bào bị mai một, rơi rụng dần, chúng ta chỉ còn thấy được bóng dáng một nhạc cụ như: đàn ống, sáo, tù, chiêng, CHƯƠNG 2 VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC NHÓM NGÔN NGỮ MÔN-KHMER Người Khmer phần lớn sống tập trung ở Campuchia. Còn ở Việt Nam thì người Khmer sống chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Bến Tre và được gọi là Khmer Crộm (theo phiên âm tiếng Việt của tiếng Khmer có nghĩa là dưới). 1. Sinh hoạt kinh tế Người Khmer đã biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa, biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa phương trồng nhiều dưa hấu. Đồng bào cũng phát triển kinh tế toàn diện như chăn nuôi trâu bò để cày kéo, nuôi lợn, gà, vịt đàn, thả cá và phát triển các nghề thủ công như dệt, gốm, làm đường từ cây thốt nốt. Đặc điểm kinh tế: Nông nghiệp dùng cày và thâm canh lúa nước Bộ nông cụ khá hoàn thiện và hiệu quả, thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ, đặc biệt nhất là việc cày bằng hai trâu. Đồng bào thành thạo nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Chăn nuôi nuôi trâu bò, lợn, gà, vịt khá phổ biến. 2. Sinh hoạt văn hoá 2.1. Trang phục truyền thống Trang phục cổ truyền của tộc người Khmer khá đặc sắc, có cá tính ở lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo đạo Phật. Điều đó được thể hiện ở những đặc điểm sau: Trang phục nam: Bình thường nam giới trung niên và người già thường mặc bộ bà ba đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần đen hoặc áo đen, quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới thì chú rể thường mặt bộ xà rông và áo ngắn bỏ ngoài màu đỏ, đây là loại áo xẻ ngực, cổ đứng cài cúc, quàng khăn trắng vắt qua vai trái và đeo thêm con dao cưới với ý nghĩa nhằm bảo vệ cô dâu. Trang phục nữ: Cách đây ba, bốn mươi năm phụ nữ Khmer Nam Bộ thường mặc váy (xăm pốt) là một loại váy bằng tơ tằm, hình ống và thường kín. Chiếc váy điển hình là loại xăm pốt chân khen, một loại váy hở, quấn quanh thân nhưng khác nhiều tộc người khác cũng có loại váy này với cách mang váy vào thân. Người phụ nữ Khmer mang luồn giữa hai chân từ sau ra trước, rồi kéo lên dắt cạnh hông tạo thành như chiếc quần ngắn và rộng. Ngày thường người phụ nữ Khmer thường mặc trang phục bằng tơ lụa, màu sắc khá rực rỡ, bao gồm mặc váy, áo dệt bằng tơ tằm, hay chỉ kim tuyến thêu hoa văn khác nhau. Trong đó áo tầm vông (còn gọi là áo cổ vòng) thường được dệt bằng tơ tằm hay chỉ kim tuyến với nhiều họa tiết hoa văn khác nhau sẽ được kết hợp hài hòa với xà rông là một mảnh thổ cẩm rộng khoảng 1m, dài 3,5m khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới và để tôn thêm nét dịu dàng uyển chuyển đầy nữ tính, đặc biệt dù mặc trang phục nào đi nữa thì cũng không thể thiếu “Sbay” là một loại khăn lụa mềm mại được cuốn chéo từ vai trái xuống bên sườn phải. Bên cạnh đó, trên các loại trang phục người phụ nữ Khmer còn đính thêm hạt cườm, kim sa và các loại hoa văn khác để cho màu sắc thêm rực rỡ. Trong lễ cưới, cô dâu mặc áo dài màu vàng thêu kim tuyến và đính hạt cườm ở phía trước với các đồ trang sức chủ yếu làm bằng hạt cườm, đồng và thêm vào một số trang sức quí hiếm khác như hoa tai làm bằng đồng, vàng, bạc và các loại hoa tươi để tôn vinh vẻ đẹp trong ngày vui nhất đời của người phụ nữ Khmer. Vậy nên khi mặc bộ trang phục truyền thống Khmer, người phụ nữ sẽ cảm thấy thân hình trở nên dịu dàng, uyển chuyển, thùy mị hơn. 2.2 Tập tục 2.2.1. Tập tục đi tu để thành người Người Khmer mang tín ngưỡng Phật giáo nên có nhiều lễ hội và đời sống sinh hoạt cộng đồng gắn với tôn giáo này, theo đó ngôi chùa của người Khmer là một giá trị văn hóa vật thể đặc biệt. Đó là nơi tập hợp cư dân trong vùng, là nơi diển ra hầu hết các lễ hội cộng đồng. Các lễ hội tôn giáo này vẩn còn được đồng bào Khmer gìn giữ và thực hành như lễ ban hành giáo lý, lễ Phật đản, lễ dân áo cà sa, lễ an vị tượng Phật, lễ kết giới, Tất cả những lễ hội đó tuy rằng chỉ là lễ hội của tôn giáo nhưng vào những ngày này hầu hết những bà con người Khmer điều tham gia như thực hiện trách nhiệm của mình với cộng đồng. Giá trị văn hóa tôn giáo, tín
Luận văn liên quan