Đề tài Tính giá thành sản xuất của sản phẩm sản xuất

K ểtừnăm 1986 cho đến nay, nền kinh tếViệt Nam đã bước sang một hướng mới, đó là chuyển từnền kinh tếvới cơchếquản lý tập trung sang nền kinh tếthị trường. Trong bối cảnh nhưvậy các doanh nghiệp sản xuất đang đứng trước những thửthách gay gắt của quy luật cạnh tranh. Do vậy trong điều kiện hiện nay, muốn tồn tại và phát triển được trong sựkhắc nghiệt của nền kinh tếthì doanh nghiệp phải nắm bắt được thịtrường, tạo chỗ đứng cho sản phẩm của mình trên thịtrường. Để đạt được mục đích tiêu đó, các doanh nghiệp cần phải có một hệthống quản lý tài chính cung cấp thông tin chính xác đểra quyết định đứng đắn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Trong đó, hạch toán kếtoán là một bộphận chức năng, một công cụcó tầm quan trọng với vai trò “ Thực hiện kiểm tra và xử lý thông tin cung cấp cho lãnh đạo và các cơquan quản lý kinh doanh phục vụcho công tác quản lý. Hạch toán kếtoán nhưmột phần thông tin kinh tếquan trọng trong cấu thành hệthống thông tin kinh tếcủa đơn vị”. Và đểcó thểtạo chỗ đứng cho sản phẩm và cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thịtrường thì doanh nghiệp phải quan tâm đến các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là chất lượng sản phẩm v.v. Không những thếdoanh nghiệp còn phải tổchức tốt hạch toán chi phí sản phẩm và tính giá sản phẩm nhằm đánh giá được mọi khía cạnh và chi tiết của mọi nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, từ đó tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp thích hợp phát huy các yếu tốtích cực, hạn chếcác yếu tốtiêu cực đểtiết kiệm chi phí sản xuất nhằm hạgiá thành sản phẩm một cách có hiệu quả. Có nhưvậy doanh nghiệp mới đạt chỉtiêu lợi nhuận và có thểmởrộng sản xuất đểcó thểtăng sức cạnh tranh trong nền kinh tếthịtrường .

pdf33 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính giá thành sản xuất của sản phẩm sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo tốt nghiệp Tính Giá Thành Sản Xuất Của Sản Phẩm Sản Xuất Đề tài: Tính Giá Thành Sản Xuất Của Sản Phẩm Sản Xuất LỜI MỞ ĐẦU 1.Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài cần nghiên cứu. Kể từ năm 1986 cho đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã bước sang một hướng mới, đó là chuyển từ nền kinh tế với cơ chế quản lý tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh như vậy các doanh nghiệp sản xuất đang đứng trước những thử thách gay gắt của quy luật cạnh tranh. Do vậy trong điều kiện hiện nay, muốn tồn tại và phát triển được trong sự khắc nghiệt của nền kinh tế thì doanh nghiệp phải nắm bắt được thị trường, tạo chỗ đứng cho sản phẩm của mình trên thị trường. Để đạt được mục đích tiêu đó, các doanh nghiệp cần phải có một hệ thống quản lý tài chính cung cấp thông tin chính xác để ra quyết định đứng đắn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Trong đó, hạch toán kế toán là một bộ phận chức năng, một công cụ có tầm quan trọng với vai trò “ Thực hiện kiểm tra và xử lý thông tin cung cấp cho lãnh đạo và các cơ quan quản lý kinh doanh phục vụ cho công tác quản lý. Hạch toán kế toán như một phần thông tin kinh tế quan trọng trong cấu thành hệ thống thông tin kinh tế của đơn vị”. Và để có thể tạo chỗ đứng cho sản phẩm và cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thị trường thì doanh nghiệp phải quan tâm đến các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là chất lượng sản phẩm v.v... Không những thế doanh nghiệp còn phải tổ chức tốt hạch toán chi phí sản phẩm và tính giá sản phẩm nhằm đánh giá được mọi khía cạnh và chi tiết của mọi nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, từ đó tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp thích hợp phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực để tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm một cách có hiệu quả. Có như vậy doanh nghiệp mới đạt chỉ tiêu lợi nhuận và có thể mở rộng sản xuất để có thể tăng sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường . Trong công tác quản trị doanh nghiệp, kế toán được coi là một công cụ quan trọng nhất phục vụ đắc lực cho các nhà quản trị doanh nghiệp, trong đó công tính giá thành sản phẩm là một phần kế toán quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất bởi thông qua khâu này, doanh nghiệp xác định được hao phí bỏ ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài: Tập trung phân tích , hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lí luận cơ bản về tổ chức công tác kế toán tính giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài. Đề tài nghiên cứu có nội dung chủ yếu sau: ƒ Khái quát cơ sở lý luận về hạch toán tính giá thành sản phẩm nhằm xem xét đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành, phương pháp tính giá thành. ƒ Nghiên cứu thực tế về tổ chức tính giá thành ở các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế thị trường. ƒ Đề xuất mô hình tính giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý hiện hành. 4.Nội dung của đề tài gồm 2 chương: Chương I: Lý luận chung về kế toán tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. Chương II : Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tính giá thành sản xuất của sản phẩm sản xuất . Đề tài: Tính Giá Thành Sản Xuất Của Sản Phẩm Sản Xuất CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM. 1.1. Ý nghĩa của việc tổ chức công tác kế toán tính giá thành sản phẩm. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều cần phải hiểu rõ về các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh , quy luật cung cầu, quy luật giá trị. Nghĩa là doanh nghiệp phải sản xuất sản phẩm ra phải có chất lượng tốt , giá cả hợp lý và phù hợp với nhu cầu thị trường. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp phải coi trọng công tác tính giá thành sản phẩm. Vì giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng, chúng phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất. Có làm tốt công tác này, kế toán mới cung cấp được những thông tin chính xác cho nhà quản trị doanh nghiệp để tìm ra nguyên nhân và từ đó đa ra quyết định quản lý trong việc thực hiện tiết kiệm chi phí và hạ giá thành hợp lý. Điều này chỉ có kế toán mới thực hiện được vì đây là một công cụ quan trọng trong quản lý. Như vậy kế toán tính giá thành sản phẩm là một phần không thể thiếu được khi thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế. 1.2. Vai trò của kế toán tính giá thành sản phẩm. Kế toán có vai trò quan trọng trong công tác tính giá thành sản phẩm. Kế toán với chức năng ghi chép, tính toán, phản ánh đầy đủ trung thực giám sát một cách thường xuyên liên tục sự biến động vật tư, tài sản và tiền vốn. Kế toán xác định thước đo giá trị và thước đo hiện vật để quản lý chi phí, từ đó kế toán có thể cung cấp những tài liệu cần thiết về những chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy tổ chức công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một công việc cần thiết và quan trọng đối với công tác quản lý nói chung và công tác tính giá thành sản phẩm nói riêng.Việc tổ chức tốt công tác tính giá thành sản phẩm giúp cho các nhà quản lý biết được tình hình các yếu tố chi phí là tiết kiệm hay lãng phí khi so sánh với chi phí định mức, với chi phí thực tế, từ đó đề ra những biện pháp thích hợp nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và có quyết định phù hợp với sự phát triển sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản lý doanh nghiệp. 1.3 Nhiệm vụ của kế toán tính giá thành sản phẩm. 9 Xác định đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất , kinh doanh và qui trình công nghệ sản xuất ở doanh nghiệp để tổ chức tính giá thành sản phẩm. 9 Lựa chọn phương pháp tính giá thành phù hợp để tính giá. 9 Thông qua ghi chép kế toán mà kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch sản xuất, kiểm tra việc tuân thủ các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, kiểm tra việc sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất kinh doanh. 9 Lập báo cáo về giá thành sản xuất của sản phẩm, lao vụ sản xuất đợc trong kì nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho việc điều hành, quản lý hoạt động SX của doanh nghiệp. II GIÁ THÀNH SẢN PHẨM. 2.1. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác,sản phẩm , lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trinh sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực tế của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ , không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. 2.2. Phân loại giá thành. Trong nền kinh tế thị trường, giá thành sản xuất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mức hao phí lao động sản xuất ra sản phẩm hoặc hoàn thành sản phẩm dịch vụ. Hạ thấp chi phí sản xuất là điều kiện quan trọng để hạ giá thành sản phẩm. Xét về bản chất, giá thành sản xuất là lượng hao phí lao động kết tinh trong sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành được bằng tiền. Giá thành vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan của giá thành sản phẩm dịch vụ thể hiện ở chỗ nó là sự dịch chuyển giá trị của những tư liệu sản xuất và sự hao phí lao động sống trong quá trình thực hiện sản phẩm dịch vụ. Tính chủ quan của giá thành thể hiện ở chỗ: việc tính toán đo lường hao phí lao động và việc phân bổ các hao phí lao động được thể hiện bằng tiền cho các đối tượng. Việc tính toán này có chính xác hay còn phụ thuộc còn phụ thuộc rất nhiều vào người làm công tác kế toán ở doanh nghiệp. Trên góc độ quản lý doanh nghiệp, giá thành sản phẩm dịch vụ là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng công tác của doanh nghiệp. Mức hạ giá thành phản ánh tình hình tiết kiệm các loại vật tư, tiền vốn và tiết kiệm hao phí lao động của doanh nghiệp. Trên góc độ kinh tế, giá thành là thước đo chi phí và khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là vì trong điều kiện giá bán không đổi, hạ giá thành sẽ tăng lợi nhuận và ngược lại. Để nghiên cứu giá thành được tốt, trước hết phải nghiên cứu đánh giá được kết cấu giá thành sản phẩm dịch vụ. Kết cấu giá thành sản phẩm là tỷ trọng các khoản mục giá thành so với tổng giá thành sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm, mỗi ngành nghề khác nhau có những đặc điểm khác nhau nên kết cấu giá thành cũng khác nhau. Do đó, trong quá trình quản lý và phân tích tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm của từng ngành cụ thể để đánh giá công việc. Để phục vụ cho công tác kế toán cũng như công tác quản lý tính giá thành sản phẩm dịch vụ, cần phải nghiên cứu các loại giá thành sản phẩm dịch vụ. Thông thường người ta phân loại giá thành sản phẩm dịch vụ như sau: 2.2.1. Phân loại theo thời điểm tính giá và nguồn số liệu để tính giá thành. ™ Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch được xác đinh trước khi bước vào kinh doanh trên cở sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức , các dự toán chi phí của kì kế hoạch. ™ Giá thành định mức : Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành đinh mức cũng được xác định trước khi bắt đầu vào sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kì kế hoạch, giá thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại các thời điểm nhất định trong kì kế hoạch ( thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. ™ Giá thành thực tế : giá thành thực tế là chỉ tiêu xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí , xác định được các nguyên nhân vượt ( hụt ) định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó , điều chỉnh kế hoạch hoặc hoạch định mức chi phí cho phù hợp. 2.2.2.Phân theo phạm vi phát sinh chi phí. Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ. ™ Giá thành sản xuất ( còn gọi là giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất , chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất . ™ Giá thành tiêu thụ (hay còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức sau: Giá thành Giá thành Chi phí Chi phí toàn bộ = sản xuất + quản lý + bán hàng của SP của SP DN Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh ( lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang tính học thuật, nghiên cứu. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM. 3.1. Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm. Do có sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị , việc hạch toán quá trình sản xuất có thể phân thành 2 giai đoạn là giai đoạn xác định đối tư- ợng tập hợp chi phí và xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm. Về thực chất xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định thành phẩm , bán thành phẩm, công việc lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất( giản đơn hay phức tạp) , vào loại hình sản xuất( đơn chiếc , hàng loạt), vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh( cao hay thấp) v.v… 3.2. Xác định phương pháp tính giá thành sản phẩm. Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Về cơ bản, phương pháp tính giá thành bao gồm các ph- ương pháp sau: ¾ Phương pháp trực tiếp ( còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số l- ượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác( quặng , than, gỗ…) Đối tượng hạch toán chi phí ở các doanh nghiêp này là từng loại sản phẩm, dịch vụ. Giá thành sản phẩm cộng (+) hoặc trừ (-) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang đầu kì so với cuối kì chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành. Tổng giá thành Chi phí SX chi phí SX Chi phí SX sản xuất của = dở dang + phát sinh đã - dở dang cuối kì sản phẩm đầu kì tập hợp được đã đánh giá được ¾ Phương pháp tổng cộng chi phí: áp dụng với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm đợc xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận , chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn , bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm: Tổng giá thànhSX = Tổng cộng chi phí SX của sản phẩm, lao vụ đã tập hợp trong kỳ ¾ Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng chủ yếu trong các doanh nghiệp khai thác, dệt , nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc… ¾ Phương pháp hệ số : Được áp dụng trong những doanh nghiêp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hơp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trinh sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết, kế toán căn cứ vào hệ số qui đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó , dựa vào tổng chi phí liên quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm: Giá thành đơn vị Tổng giá thành của tất cả các loại sản phẩm sản phẩm gốc Tổng số sản phẩm gốc( kể cả qui đổi) = Giá thành đơn vị = Giá thành đơn vị * Hệ số qui đổi sản phẩm từng loại sản phẩm gốc sản phẩm từng loại Tổng giá thành Giá trị SP Tổng chi phí Giá trị sản xuất của các = dở dang + SX phát - sản phẩm DD loại sản phẩm đầu kỳ sinh trong kì cuối kì ¾ Phương pháp tỷ lệ : Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách , phẩm chất khác nhau như : may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo( dụng cụ , phụ tùng…) v.v… để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch( hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm cùng loại. Giá thành thực tế đơn = Giá thành kế hoạch (hoặc định mức) * tỷ lệ chi vị sản phẩm từng loại đơn vị sản phẩm từng loại phí Tỷ lệ Tổng giá thành thực tế của các loại sản phẩm chi phí x 100 Tổng giá thành kế hoạch của các loại sản phẩm ¾ Phưhơng pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu đợc còn có thể thu được những sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến đường rượu, bia, mì ăn liền…), để tính giá trị sản phẩm chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp nh giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch , giá nguyên liệu ban đầu… Tổng Giá trị Tổng chi phí Giá trị Giá trị giá thành = sản phẩm + sản xuất - sản phẩm - sản phẩm sản phẩm chính DD phát sinh phụ thu hồi dở dang chính đầu kỳ trong kỳ ớc tính cuối kỳ ¾ Phương pháp liên hợp : Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất , tính chất qui trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp hoá chất , dệt kim, đóng giầy, may mặc… Trên thực tế , kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ , hệ số với loại trừ sản phẩm phụ … 3.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu. Trên cơ sở các phương pháp chung để tính giá thành sản phẩm, kế toán cần lựa chọn và áp dụng vào từng loại hình doanh nghiệp cho phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất , đặc điểm qui trình công nghệ cũng như đối tợng hạch toán chi phí. Sau đây là phương pháp tính giá thành sản phẩm áp dụng trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu: = 3.3.1. Doanh nghiệp sản xuất giản đơn. Doanh nghiệp sản xuất giản đơn thường là những doanh nghiệp chỉ sản xuất một hoặc một số ít mặt hàng với khối lượng lớn , chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể như các doanh nghiệp khai thác than, quặng , hải sản…; các doanh nghiệp sản xuất động lực ( điện, nước, hơi nước, khí nén , khí đốt…) Do số lượng mặt hàng ít nên đối tợng hạch toán chi phí sản xuất đ- ược tiến hành theo sản phẩm, mỗi mặt hành sản xuất được mở một sổ (hoặc thẻ) hạch toán chi phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp (giản đơn) hoặc phương pháp liên hợp. PHIẾU TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Tên sản phẩm…. Tháng … năm…Đơn vị :… Khoản mục chi phí CPSXD D ĐK CPSX PSTK CPSX ĐCK Tổng giá thành Giá thành đơn vị 1. Ng. vật liệu trực tiếp 2. Nhân công trực tiếp 3. Sản xuất chung Cộng 3.3.2. Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng. Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng, đối t- ượng hạch toán chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng cụ thể. Đối tượng tính giá thành sản phẩm là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Phương pháp tính giá thành tuỳ theo tính chất và số lượng sản phẩm của từng đơn sẽ áp dụng phơng pháp thích hợp như phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp liên hợp v.v… Đặc điểm của việc hạch toán chi phí trong các doanh nghiệp này là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh đều được tập hợp theo từng đơn đặt hàng, không kể số l- ượng sản phẩm của đơn đặt hàng nhiều hay ít, quy trình công nghệ giản đơn hay phức tạp. Đối với các chi phí trực tiếp( nguyên vật liệu, nhân công) phát sinh trong kỳ liên quan trực tiếp đến đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo các chứng từ gốc( hay bảng phân bổ chi phí). Đối với chi phí sản xuất chung , sau khi tập hợp xong sẽ phân bổ cho từng đơn the