Ngày nay khi đất nước giành được độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, từng bước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực phản động tìm mọi cách lôi kéo, công kích và nói xấu chế độ ta. Vì vậy để có được sự ổn định về chính trị và xã hội thì vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định. Qua hơn 80 năm ra đời, tồn tại Đảng Cộng sản Việt Nam là con thuyền đưa đất nước vượt qua bao khó khăn, thử thách, chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược, từng bước xây dựng đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, biến Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Hàng loạt các phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc đã nổ ra để chống phong kiến và thực dân nhưng đều thất bại đã phản ánh một thực tế là các phong trào thời kỳ này chưa có một tổ chức Đảng đúng đứn để lãnh đạo các phong trào đó, phản ánh sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo. Thời đại mới quy định những nhiệm vụ mới và vấn đề đặt ra là phải có một giai cấp tiên tiến đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ này. Mặt khác trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế, văn hóa tư tưởng, xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc, nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội mới ra đời với nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
Đầu thế kỷ XX các sự kiện và luồng tư tưởng dân chủ tư sản từ Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản dồn dập xuất hiện ở Việt Nam từ đó chưa bao giờ ở Việt Nam lại xuất hiện nhiều tổ chức đảng phái và các tư tưởng chính trị đến như vậy.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX ở Việt Nam tồn tại song song hai khuynh hướng phát triển đó là khuynh hướng tư sản và khuynh hướng vô sản với nhiều đảng phái nối tiếp nhau ra đời, tồn tại và lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân ta thời kỳ này, mỗi đảng phái đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, có những đảng đứng trên lợi ích của dân tộc, có những đảng đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu. Để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh ra đời, quá trình hoạt động, vai trò của các đảng phái chính trị ở Việt Nam trong thời kỳ 1921 - 1929 nhằm đánh giá một cách khách quan sự lãnh đạo cũng như lập trường của các Đảng chính trị đó vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tình hình các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình
26 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2568 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
“Tình hình các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929”
Giáo viên hướng dẫn :
Họ tên sinh viên :
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay khi đất nước giành được độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, từng bước xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực phản động tìm mọi cách lôi kéo, công kích và nói xấu chế độ ta. Vì vậy để có được sự ổn định về chính trị và xã hội thì vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định. Qua hơn 80 năm ra đời, tồn tại Đảng Cộng sản Việt Nam là con thuyền đưa đất nước vượt qua bao khó khăn, thử thách, chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược, từng bước xây dựng đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, biến Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Hàng loạt các phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc đã nổ ra để chống phong kiến và thực dân nhưng đều thất bại đã phản ánh một thực tế là các phong trào thời kỳ này chưa có một tổ chức Đảng đúng đứn để lãnh đạo các phong trào đó, phản ánh sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo. Thời đại mới quy định những nhiệm vụ mới và vấn đề đặt ra là phải có một giai cấp tiên tiến đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ này. Mặt khác trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế, văn hóa tư tưởng, xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc, nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội mới ra đời với nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
Đầu thế kỷ XX các sự kiện và luồng tư tưởng dân chủ tư sản từ Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản dồn dập xuất hiện ở Việt Nam từ đó chưa bao giờ ở Việt Nam lại xuất hiện nhiều tổ chức đảng phái và các tư tưởng chính trị đến như vậy.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX ở Việt Nam tồn tại song song hai khuynh hướng phát triển đó là khuynh hướng tư sản và khuynh hướng vô sản với nhiều đảng phái nối tiếp nhau ra đời, tồn tại và lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân ta thời kỳ này, mỗi đảng phái đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, có những đảng đứng trên lợi ích của dân tộc, có những đảng đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu. Để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh ra đời, quá trình hoạt động, vai trò của các đảng phái chính trị ở Việt Nam trong thời kỳ 1921 - 1929 nhằm đánh giá một cách khách quan sự lãnh đạo cũng như lập trường của các Đảng chính trị đó vì vậy chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tình hình các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
* Nhóm thứ nhất, bao gồm các công trình nghiên cứu chung về Đảng chính trị như: Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975; Đinh Trần Dương: Tân Việt Cách mạng Đảng trong cuộc vận động thành lập Đảng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006; Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000; Nguyễn Văn Khoan: Nguyễn Ái Quốc với công tác giao thông liên lạc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2005; Nguyễn Bá Ngọc: Biên niên sự kiện Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, 2006; Nguyễn Quang Ngọc: Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 2009; Phạm Xanh, Đặng Hoà, Đào Phiếu: Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986.
* Nhóm thứ hai, bao gồm các công trình chuyên khảo của Việt Nam như: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Các tổ chức tiền thân của Đảng, Nxb. Sự Thât, Hà Nội, 1977; Bộ Giáo dục và Đào tạo: Một số chuyên đề Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007; Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007; Học viện CTQG Hồ Chí Minh-Khoa Xây dựng Đảng: Giáo trình Xây dựng Đảng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995; Viện Lịch sử Đảng: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiểu sử và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987; Trích tác phẩm kinh điển về xây dựng Đảng, Nxb. Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1984.
* Nhóm thứ ba, bao gồm các công trình của học giả nước ngoài như Đồng chí Hồ Chí Minh của Kobelev; Huỳnh Kim Khánh: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam 1920 – 1945; Gabrielle Kolko: Giải phẫu một cuộc chiến tranh; Wilfred Burchette: Tam giác Trung Quốc - Việt Nam – Campuchia…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu một cách khái quát hoàn cảnh ra đời và quá trình hoạt động của các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929, từ đó tổng kết những đóng góp cũng như hạn chế của các Đảng chính trị đó.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ được quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về sự xuất hiện của các Đảng chính trị trong phong trào cách mạng.
- Tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời và quá trình hoạt động của các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929.
- Nêu lên được những đóng góp và hạn chế của các Đảng chính trị cũng như những vấn đề gợi mở nghiên cứu tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời và quá trình hoạt động của các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929, những đóng góp và hạn chế của các Đảng chính trị đó.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tình hình của các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự xuất hiện của các Đảng chính trị trong phong trào cách mạng.
5.2. Phương pháp cụ thể:
Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống.
Ngoài ra còn sử dụng các nguồn tư liệu, sách báo, tạp chí nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời và quá trình hoạt động của các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Trên cơ sở nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời, quá trình hoạt động và vai trò của các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929 để từ đó tổng kết những đóng góp và hạn chế của các Đảng chính trị đó và từ đó nêu lên những vấn đề gợi mở cho việc nghiên cứu trong tương lai.
- Khẳng định sự thắng thế của hệ tư tưởng vô sản trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự xuất hiện Đảng chính trị ở Việt Nam.
Chương 2: Sự xuất hiện và hoạt động của các Đảng chính trị ở Việt Nam trong những năm 1921 - 1929.
Chương 3: Tổng luận từ quá trình nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ XUẤT HIỆN ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về sự xuất hiện Đảng phái chính trị
Từ những thất bại của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong những năm 40 của thế kỷ XIX, họ đã tìm ra nguyên nhân và cho rằng một trong những nguyên nhân cơ bản là việc thiếu một tổ chức đảng chính trị mới đại diện cho lợi ích mới của giai cấp công nhân nhằm tập hợp lực lượng, đưa phong trào đấu tranh có tính tổ chức kỷ luật.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen bước đầu đã bàn về đảng chính trị của giai cấp công nhân, trước tiên hai ông chỉ ra những người cộng sản không phải là một Đảng riêng biệt, đối lập với các Đảng công nhân khác, họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng, giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất. Nhưng giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được chính đảng độc lập của nó. Như vậy muốn giành được chính quyền thì vấn đề căn bản là phải tổ chức thành lập Đảng chính trị của giai cấp mình, Đảng chính trị là lực lượng tiên phong lãnh đạo, tổ chức cuộc đấu tranh thống nhất đường lối đúng đắn, chủ động tự giác.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển những nguyên lý xây dựng đảng của C.Mác và Ph.Ăngghen, những nguyên tắc cơ bản xây dựng đảng kiểu mới được V.I.Lênin trình bày trong các tác phẩm Làm gì (3 - 1902) - tác phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp các tổ chức địa phương xung quanh tờ báo “Tia lửa” để thực hiện kế hoạch của Lênin về xây dựng Đảng, V.I.Lênin đã lý giải một cách khoa học nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác: Đảng là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân.
V.I.Lênin cho rằng: không có con đường nào khác để đi tới CNXH, ngoài con đường thông qua phong trào công nhân. Nhưng muốn đấu tranh cách mạng trước hết phải thành lập một chính đảng của GCCN.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự xuất hiện của các Đảng chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải có Đảng chính trị trong phong trào cách mạng
Giữa cảnh hoang mang, bế tắc của những người yêu nước đầu thế kỷ XX, Ngày 5 - 6 - 1911, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước với lòng nung nấu tìm những gì ẩn sau những chữ Tự do, Bình đẳng, Bác ái, xem người ta làm như thế nào để rồi về giúp đồng bào. Năm 1921 với tư cách là đảng viên của Đảng xã hội Pháp, tham dự cuộc tranh luận trong nội bộ Đảng về thái độ đối với Quốc tế thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã được tiếp xúc với tư tưởng của V.I.Lênin qua bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Người tìm hiểu kỹ quan điểm của V.I.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở Tây Âu và cách mạng giải phóng dân tộc: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc. Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Qua đó chúng ta thấy từ rất sớm, Người đã gắn chặt vấn đề giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Từ luận điểm đó Người nêu bật tầm quan trọng, ý nghĩa của sự đoàn kết và hợp tác quốc tế, nhấn mạnh vai trò của giai cấp vô sản, tác dụng tích cực và chủ động của các Đảng Cộng sản.
Như vậy theo Hồ Chí Minh muốn giải phóng dân tộc thì chúng ta phải có một đảng chân chính lãnh đạo, đó là Đảng đại diện cho lợi ích của toàn thể dân tộc, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tiền đề về kinh tế
* Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914)
Quá trình thực dân Pháp xâm lược, cai trị và bóc lột thuộc địa qua các chương trình khai thác thuộc địa đã làm thay đổi sâu sắc các mặt của đời sống kinh tế.
Thứ nhất là việc đầu tư cơ sở hạ tầng, từng bước đầu tư mở mang công thương nghiệp. Ngành khai thác mỏ được thực dân Pháp tập trung đầu tư vì nhanh chóng thu được lợi nhuận.
Thứ hai là chính sách cướp đoạt ruộng đất. Mặc dù nông nghiệp chưa phải là lĩnh vực được quan tâm nhất lúc này nhưng tư bản Pháp, hiểu rõ vị trí của vấn đề này trong tương lai. Với đủ mọi mánh khóe tàn ác, chúng đã cướp đoạt tới 470.000 ha năm 1913 so với 10.000 ha năm 1890.
Thứ ba là chính sách thuế khóa gồm thuế trực thu (thuế đinh và thuế điền) và thuế gián thu (thuế muối, thuế rượu và thuế thuốc phiện). Trong bước đầu thiết lập chế độ thuộc địa và khai thác kinh tế, thực dân Pháp cũng chú trọng cuộc xâm lăng về văn hóa, trong đó tập trung vào ba mặt chủ yếu sau:
Một là, nhập cơ sở vật chất kỹ thuật ấn loát, tạo điều kiện để văn minh phương Tây chế ngự dần, loại bỏ dần chữ Hán và Nho học.
Hai là, đào tạo lớp trí thức mới Tây học, tầng lớp “thượng lưu trí thức”.
Ba là, cổ vũ cho những tư tưởng thân Pháp, vong bản, chống đối, ngăn cản những tư tưởng tiến bộ kể cả tư tưởng dân chủ tư sản Pháp.
* Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1919-1929).
Về mục tiêu, cuộc khai thác thuộc địa lần này vẫn theo đuổi một ý đồ nham hiểm là bòn rút thuộc địa để làm giàu cho chính quốc nhưng không cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính quốc.
Về cường độ, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra với một cường độ mạnh. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924 - 1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh.
Về các lĩnh vực đầu tư, có sự thay đổi rất lớn. Nếu như trong khai khác thuộc địa thứ nhất, khai khoáng chiếm vị trí hàng đầu, thì trong cuộc khai thác thuộc địa lần này thì nông nghiệp chiếm vị trí hàng đầu.
Như vậy trải qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho nước Việt Nam không thể phát triển lên tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Pháp. Bên cạnh phương thức sản xuất phong kiến chỉ xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cái cũ, cái mới đan xen nhau nhưng nói chung bị kìm hãm nặng nề, phát triển chậm chạp, què quặt, yếu ớt.
1.2.2. Tiền đề về xã hội
Kết cấu giai cấp thay đổi: Ngoài hai giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân đã tồn tại từ lâu trong lòng xã hội Việt Nam, giai cấp tiểu tư sản trí thức đã có trong xã hội phong kiến nay đã tăng lên đáng kể đồng thời xuất hiện các giai cấp mới là tư sản và công nhân. Mỗi giai cấp có địa vị kinh tế và thái độ chính trị khác nhau đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Giai cấp địa chủ phong kiến: Đây là giai cấp rường cột của chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử dân tộc và có những công lao to lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Nhưng từ thế kỷ XVI, nhất là từ thế kỷ XVIII nó đi vào con đường suy vong đến thế kỷ XIX, nó trở thành giai cấp phản động đầu hàng đế quốc khi thực dân Pháp xâm lược và được đế quốc Pháp dung dưỡng để làm công cụ cho nền thống trị. Đến một mức độ nhất định nội bộ giai cấp này đã xuất hiện sự phân tầng rõ rệt: Một bộ phận đại địa chủ (vua, quan lại lớn, đại địa chủ ở thôn quê) làm tay sai cho chủ nghĩa thực dân, cấu kết với đế quốc bán rẻ quyền lợi của dân tộc, bóc lột nhân dân (nông dân), quyền lợi kinh tế chính trị gắn liền với đế quốc thực dân. Vì vậy đây là đối tượng mà cách mạng cần thiết đánh đổ. Bộ phận địa chủ vừa và nhỏ: Do không được thực dân Pháp cho hưởng nhiều quyền lợi do vậy có mâu thuẫn nhất định. Trong họ vẫn còn có tinh thần dân tộc chống thực dân. Họ có tinh thần yêu nước trong điều kiện lịch sử nhất định, nếu được hướng dẫn lãnh đạo họ sẽ là bạn đồng minh có điều kiện của cách mạng.
Giai cấp nông dân là thành phần chiếm tuyệt đối đại đa số (khoảng 90%) trong xã hội Việt Nam, phải chịu hai tầng áp bức bóc lột của thực dân và phong kiến, họ bị bần cùng hóa, bị tước đoạt ruộng đất, bị mất nhà cửa, lâm vào cảnh đói rét, buộc phải tha phương cầu thực, đi làm phu mỏ, phu đồn điền. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giành lại ruộng đất và quyền sống tự do, hạnh phúc của người dân.
Nông dân có lòng yêu nước nồng nàn, kiên cường đấu tranh chống đế quốc và phong kiến, chống áp bức bóc lột bất công. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nông dân có một vị trí, vai trò quan trọng: Là lực lượng cách mạng đông đảo to lớn nhất, là bạn đồng minh tin cậy nhất của giai cấp công nhân, cùng với giai cấp công nhân là động lực chính của cách mạng Việt Nam. Giai cấp nông dân là giai cấp cũ, không có hệ tư tưởng độc lập do vậy dù thiết tha với độc lập và quyền lợi giai cấp nhưng không thể lãnh đạo cách mạng được. Chỉ đi theo giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân mới phát huy hết sức mạnh đầy đủ, nguyện vọng tha thiết của họ mới được thực hiện.
Giai cấp tư sản Việt Nam: Nguồn gốc: Một ít xuất thân từ địa chủ tư sản hóa hoặc quan lại, tiểu chủ, tiểu thương đi buôn nhưng chủ yếu đi lên từ những người làm thầu khoán, đại lý cho Pháp. Chủ yếu kinh doanh trong lĩnh vực thương nghiệp “mua rẻ bán đắt”, thủ công nghiệp và một ít trong giao thông vận tải, ngân hàng và khai mỏ. Sau chiến tranh gặp những điều kiện thuận lợi nên hoạt động kinh doanh của họ càng trở nên sôi nổi hơn, đa dạng hơn. Họ kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, từ xay xát, nhuộm, dệt, in ấn, vận tải đến sản xuất nước mắm, đường, xà phòng…Một số đã có trong tay một sản nghiệp lớn như mỏ, đồn điền, công ty vận tải sông biển, các công ty thương mại... Tư sản Việt Nam từ một tầng lớp trở thành một giai cấp thực sự sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Do điều kiện kinh doanh giai cấp tư sản Việt Nam tự phân thành hai bộ phận: tư sản mại bản là bộ phận có quyền lợi chính trị, kinh tế của bộ phận này gắn chặt với lợi ích kinh tế của tư bản thực dân và tư sản dân tộc là bộ phận có lợi ích kinh tế không đồng nhất với lợi ích kinh tế của chính quyền thực dân. Tuy nhiên do địa vị kinh tế bấp bênh, tinh thần dễ giao động, không kiên định lập trường, khi phong trào cách mạng lên cao thì họ sợ, còn đế quốc mạnh thì dễ bề thỏa hiệp. Vì vậy trong sách lược chọn bạn đồng minh, tư sản dân tộc là một lực lượng cần lôi kéo.
Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam: Giai cấp tiểu tư sản được kết hợp lỏng lẻo bởi ba bộ phận: trí thức, tiểu thương và thợ thủ công. Điểm chung của họ là thị dân, sở hữu một ít tư liệu sản xuất (vốn, chất xám).
Bị đế quốc và phong kiến bóc lột và khinh miệt nên đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những người vô sản, họ có tinh thần dân tộc, nhất là tiểu tư sản trí thức rất nhạy cảm với thời cuộc. Trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi giai cấp, tiểu tư sản có một vai trò quan trọng, lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào, vì vậy đây là lực lượng có tinh thần cách mạng dân tộc, dân chủ nhưng do địa vị kinh tế bấp bênh, nội bộ giai cấp không thuần nhất, mỗi bộ phận có cách làm khác nhau, thái độ chính trị hay dao động nên không thể lãnh đạo cách mạng. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiểu tư sản là một lực lượng bạn đồng minh có sách lược của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là giai cấp ra đời đầu tiên, ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp trước hết là do nhu cầu của chủ nghĩa tư bản Pháp. Nguồn gốc của giai cấp công nhân Việt Nam, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Ngoài ra còn có một bộ phận thợ thủ công, một số thợ chuyên môn ở các trường kỹ nghệ thực hành…
Tuy ra đời muộn nhưng đã mang bản chất của GCCN quốc tế: Đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, làm thuê và bị bóc lột giá trị thặng dư; Có tinh thần cách mạng triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật cao; Có khả năng đoàn kết nội bộ, quy tụ đoàn kết các giai cấp khác; Có tinh thần đoàn kết quốc tế.
Bên cạnh bản chất chung của giai cấp vô sản thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng do điều kiện lịch sử cụ thể quy định như ra đời giữa lúc phong trào cộng sản thế giới đang phát triển thắng lợi, tiêu biểu là cách mạng tháng Mười Nga (1917), Quốc tế Cộng sản (1919), khi mà chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên phổ biến và đi từ lý luận trở thành thực tiễn; ra đời ở một nước thuộc địa, chịu ba tầng áp bức bóc lột bất công (đế quốc, phong kiến, tư sản trong nước); xuất thân chủ yếu từ nông dân nên có mối liên hệ máu thịt với nông dân, đây là cơ sở để thiết lập liên minh công - nông; mối thù dân tộc hòa cùng mối thù giai cấp “là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Giải phóng giai cấp mình cũng là giải phóng toàn thể xã hội”.
Tất cả những đặc điểm trên đã quy định giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp cách mạng triệt để nhất, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi tới những thắng lợi.
1.2.3. Tiền đề về văn hóa - tư tưởng
Cùng với sự đầu tư khai thác thuộc địa gia tăng sau chiến tranh, đời sống kinh tế và xã hội nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ. Một nền kinh tế với cấu trúc đa ngành đã xuất hiện. Một hệ thống đô thị đã hình thành và phát triển. Một nền giáo dục Pháp - Việt, sau nhiều lần cải cách và tìm kiếm những mô hình hợp lý, đã phát huy tác dụng. Các cơ sở in ấn, xuất bản đã xuất hiện ở các thành