1.1 Lý do chọn đề tài.
1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài.
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Nông nghiệp đóng góp bình quân 80% tỉ trọng GDP cả nước hằng năm. Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn gắn với cải thiện đời sống của người nông dân là vấn đề trọng tâm, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm ưu tiên. Sự nghiệp CNH - HĐH đất nước sẽ không thành công nếu chúng ta không chú trọng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Cho đến hiện tại, sản xuất nông nghiệp vẫn đang là thế mạnh hàng đầu của nước ta. Vì vậy đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đang là mối quan tâm và ưu tiên hàng đầu trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
ĐBSCL là một trong hai vùng trọng điểm nông nghiệp của cả nước. Cho đến nay, kinh tế nông nghiệp nơi đây vẫn chưa phát triển đúng tiềm năng của nó. Là vựa lúa của cả nước nhưng đời sống nông dân vẫn còn nhiều khó khăn do sản xuất manh múng, tự phát, thiếu chất lượng. Bên cạnh đó, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất còn thấp.
Trong thời kỳ Việt Nam hội nhập nền kinh tế toàn cầu, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Để có thể cạnh tranh được với nông sản của các nước khác, bản thân những người nông dân phải hợp tác với nhau để sản suất ra sản phẩm đồng nhất, chất lượng cao, sản lượng lớn, giá thành hạ. Vì vậy, sự ra đời của các HTXNN là điều tất yếu.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Luật HTX sửa đổi đã được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 4 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2004. Luật đã có nhiều thay đổi tích cực so với Luật của năm 1996, tạo ra nhiều thuận lợi và thông thoáng hơn cho các HTX phát triển. Theo Luật, HTX có được khung khổ pháp lý hoàn chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường và các chuẩn mực quốc tế.
Sự ra đời và đi vào hoạt động của các HTXNN mang lại nhiều lợi ích cho nông dân và nền kinh tế. Tuy nhiên các HTXNN Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế do quy mô nhỏ, vốn nghèo, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn nhiều yếu kém. Ngoài ra, năng lực quản lý của cán bộ lãnh đạo chưa cao. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để hoàn thiện và phát triển hơn nữa các mô hình HTXNN Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng. Nằm trong mục tiêu phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp vùng trọng điểm ĐBSCL, với trình độ và thời gian có hạn, đề tài “Tình hình hoạt động của các HTXNN tiêu biểu ở ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang” mong muốn phát hiện những yếu tố tích cực, đồng thời tìm ra những hướng đi mới, cơ bản cho sự phát triển của các HTXNN.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.
HTXNN là một thành phần không thể thiếu cho sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam, cho đến nay mô hình HTXNN kiểu mới ở ĐBSCL nói chung và ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang nói riêng được hình thành không lâu nên việc tìm ra và khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hơn nữa mô hình HTXNN là vấn đề quan trọng.
HTXNN là đại diện cho nông dân, tập hợp những nông dân sản xuất nhỏ lẻ lại với nhau để có thể sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng đồng nhất. Tuy nhiên việc phát triển hơn nữa quy mô cũng như thu hút xã viên cùng tham gia sản xuất vẫn còn hạn chế và cần tìm biện pháp cải thiện.
Việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế cho sản phẩm để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu cũng đang được các HTXNN và Nhà nước quan tâm. Thực tiễn đạt ra một vấn đề là làm thế nào để nhanh chóng xây dựng tiêu chuẩn chất lượng và thương hiệu riêng cho HTXNN hoặc liên minh HTXNN.
Nước ta đang hội nhập ngày một sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Để phát triển nông nghiệp nói chung và HTXNN cần có các chiến lược và kế hoạch cụ thể. Con người là cốt lõi cho sự thành bại của một doanh nghiệp. HTXNN cũng là một loại hình doanh nghiệp nên vấn đề đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực cũng là một vấn đề cần đặt ra để tìm hướng giải quyết.
Tất cả các vấn đề thực tiễn nêu trên sẽ được lần lượt phân tích trong nội dung của đề tài.
74 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2637 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp tiêu biểu ở ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài.
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Nông nghiệp đóng góp bình quân 80% tỉ trọng GDP cả nước hằng năm. Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn gắn với cải thiện đời sống của người nông dân là vấn đề trọng tâm, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm ưu tiên. Sự nghiệp CNH - HĐH đất nước sẽ không thành công nếu chúng ta không chú trọng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Cho đến hiện tại, sản xuất nông nghiệp vẫn đang là thế mạnh hàng đầu của nước ta. Vì vậy đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đang là mối quan tâm và ưu tiên hàng đầu trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
ĐBSCL là một trong hai vùng trọng điểm nông nghiệp của cả nước. Cho đến nay, kinh tế nông nghiệp nơi đây vẫn chưa phát triển đúng tiềm năng của nó. Là vựa lúa của cả nước nhưng đời sống nông dân vẫn còn nhiều khó khăn do sản xuất manh múng, tự phát, thiếu chất lượng. Bên cạnh đó, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất còn thấp.
Trong thời kỳ Việt Nam hội nhập nền kinh tế toàn cầu, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Để có thể cạnh tranh được với nông sản của các nước khác, bản thân những người nông dân phải hợp tác với nhau để sản suất ra sản phẩm đồng nhất, chất lượng cao, sản lượng lớn, giá thành hạ. Vì vậy, sự ra đời của các HTXNN là điều tất yếu.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Luật HTX sửa đổi đã được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 4 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2004. Luật đã có nhiều thay đổi tích cực so với Luật của năm 1996, tạo ra nhiều thuận lợi và thông thoáng hơn cho các HTX phát triển. Theo Luật, HTX có được khung khổ pháp lý hoàn chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường và các chuẩn mực quốc tế.
Sự ra đời và đi vào hoạt động của các HTXNN mang lại nhiều lợi ích cho nông dân và nền kinh tế. Tuy nhiên các HTXNN Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế do quy mô nhỏ, vốn nghèo, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn nhiều yếu kém. Ngoài ra, năng lực quản lý của cán bộ lãnh đạo chưa cao. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để hoàn thiện và phát triển hơn nữa các mô hình HTXNN Việt Nam nói chung, ĐBSCL nói riêng. Nằm trong mục tiêu phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp vùng trọng điểm ĐBSCL, với trình độ và thời gian có hạn, đề tài “Tình hình hoạt động của các HTXNN tiêu biểu ở ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang” mong muốn phát hiện những yếu tố tích cực, đồng thời tìm ra những hướng đi mới, cơ bản cho sự phát triển của các HTXNN.
Cơ sở thực tiễn của đề tài.
HTXNN là một thành phần không thể thiếu cho sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam, cho đến nay mô hình HTXNN kiểu mới ở ĐBSCL nói chung và ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang nói riêng được hình thành không lâu nên việc tìm ra và khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hơn nữa mô hình HTXNN là vấn đề quan trọng.
HTXNN là đại diện cho nông dân, tập hợp những nông dân sản xuất nhỏ lẻ lại với nhau để có thể sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng đồng nhất. Tuy nhiên việc phát triển hơn nữa quy mô cũng như thu hút xã viên cùng tham gia sản xuất vẫn còn hạn chế và cần tìm biện pháp cải thiện.
Việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế cho sản phẩm để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu cũng đang được các HTXNN và Nhà nước quan tâm. Thực tiễn đạt ra một vấn đề là làm thế nào để nhanh chóng xây dựng tiêu chuẩn chất lượng và thương hiệu riêng cho HTXNN hoặc liên minh HTXNN.
Nước ta đang hội nhập ngày một sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Để phát triển nông nghiệp nói chung và HTXNN cần có các chiến lược và kế hoạch cụ thể. Con người là cốt lõi cho sự thành bại của một doanh nghiệp. HTXNN cũng là một loại hình doanh nghiệp nên vấn đề đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực cũng là một vấn đề cần đặt ra để tìm hướng giải quyết.
Tất cả các vấn đề thực tiễn nêu trên sẽ được lần lượt phân tích trong nội dung của đề tài.
Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu tổng quan.
Đánh giá thực trạng, đồng thời phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của các HTXNN ở ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang trong thời gian qua, từ đó tìm ra các hướng đi mới với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển mô hình hoạt động HTX trong thời đại mới.
Mục tiêu chi tiết.
Mục tiêu 1: Phân tích thực trạng hoạt động của các HTXNN trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang trong thời gian qua.
Mục tiêu 2: Phân tích các yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các HTXNN trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang trong thời gian qua.
Mục tiêu 3: Tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển các mô hình HTXNN trong giai đoạn mới hướng đến năm 2020.
Các giả thuyết kiểm định và câu hỏi nghiên cứu.
Các giả thuyết cần kiểm định.
Giả thuyết 1: Các mô hình HTXNN hiện nay vẫn chưa hoạt động thật sư hiệu quả.
Giả thuyết 2: Chưa có sự thay đổi rõ rệt trong cơ cấu hoạt động của các HTXNN kể từ khi Luật HTX được sữa đổi bổ sung năm 2003 và việc Việt Nam gia nhập WTO năm 2007.
Giả thuyết 3: Các HTXNN vẫn chưa thu hút được nhiều nông hộ tham gia vì những lợi ích mà nó mang lại chưa thiết thực.
Giả thuyết 4: Các cán bộ trong ban lãnh đạo HTX chưa có trình độ chuyên môn cao đủ để đáp ứng được nhu cầu hội nhập và phát triển trong giai đoạn hiện tại.
Các câu hỏi nghiên cứu.
Quy mô và tình tình phát triển quy mô của các HTXNN ở Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang hiện nay như thế nào?
Tình hình ứng dụng và đổi mới trang thiết bị, máy móc phục vụ cho hoạt động của các HTXNN trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang như thế nào?
Trình độ và năng lực quản lý của cán bộ Quản lý HTX đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hiện nay chưa?
Hiệu quả kinh doanh và lợi ích đạt được ra sao?
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu trên các Huyện có các mô hình HTXNN tiêu biểu trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Long , An Giang và Tiền Giang.
Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2009. Thời gian thu thập số liệu thứ cấp được tiến hành vào tháng 05/2009và được hoàn thành vào tháng 01/2010. Riêng số liệu sơ cấp được tiến hành thu thập từ 01/01/2010 đến 28/02/2010.
Đối tượng nghiên cứu: Mục tiêu của đề tài là đánh giá và tìm ra các mô hình HT mới nhằm thúc đẩy sự phát triển các mô hình hợp tác. Do giới hạn về kinh phí thực hiện nên chỉ nghiên cứu trên các HTXNN tiêu biểu trên địa bàn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang.
Lược khảo tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, các công trình nghiên cứu có liên quan đến tình hình hoạt động của các HTXNN ở ĐBSCL nói chung và ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang nói riêng có các bài nghiên cứu của các tác giả:
Tô Thiện Hiền, Thực trạng và giải pháp hợp tác xã nông nghiệp ở An Giang – Đại học An Giang, 2006.
Đề tài nghiên cứu nhằm xác định hình thức nghiên cứu hợp tác nông nghiệp tại địa bàn tỉnh An Giang, từ khâu vận động nông dân cho hiểu ý nghĩa của hợp tác xã kiểu mới đến các quy trình thành lập, đào tạo hợp tác xã, hoạt động sản xuất, tín dụng và tiêu thụ sản phẩm và rút ra những bất cập, những thiếu xót và những chỗ mạnh của phong trào hợp tác xã của tỉnh An Giang để đề xuất những biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của các hợp tác xã nông nghiệp An Giang để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế thế giới.
Nguyễn Công Bình, Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Tiền Giang đến 2015 - Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, 2007.
Đề tài nghiên cứu phân tích các điều kiện tự nhiên và xã hội ở Tiền Giang, qua đó đánh giá thực trạng hoạt động và phát triển của các Hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Tiền Giang giai đoạn 1997 đến 2007, từ đó tìm ra các giải pháp thích hợp để nâng cao hoạt động của các HTXNN tầm nhìn đến 2015.
Các báo cáo tình hình hoạt động của HTX hằng năm của Sở Nông nghiệp ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang
Báo cáo đánh giá thực trạng hoạt động HTX trong tỉnh, phân tích những thuận lợi, khó khăn chủ yếu trong hoạt động của các HTX từ đó tìm ra giải pháp cải thiện đồng thời đề ra các mục tiều cần đạt được cho những năm tiếp theo.
Các văn bản pháp quy liên quan đến sự phát triển HTX hiện nay.
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Phương pháp luận.
2.1.1. Tổng quan về Hợp tác xã và HTX nông nghiệp.
2.1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của HTXNN.
Khái niệm:
Theo liên minh HTX quốc tế “HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”.
Theo Điều 1 Luật HTX sửa đổi bổ sung năm 2003 “HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy đinh của Luật để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”.
HTX nông nghiệp là một hình thức của HTX có các hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp như sản xuất, tiêu thụ nông sản, các loại hình dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của HTXNN:
Một là, HTXNN là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những nông hộ, nông trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm nhưng kém hiệu quả.
Hai là, cơ sở thành lập của HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các thành viên và quyền làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp it hay nhiều.
Ba là, mục đích kinh doanh của HTX trước hết là dịch vụ cho xã viên, đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường.
Bốn là, HTX thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Năm là, HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thật sự có nhu cầu, có mong muốn không lệ thược vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như vậy trong một khu cự nhất định có thể tồn tại nhiều loại hình HTX có nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã viên không giống nhau, trong đó một số nông hộ, trang trại đồng thời là xã viên của nhiều HTX khác nhau.
Sáu là, xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong HTX, vừa là cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan hệ giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ, vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập.
2.1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTXNN.
HTX tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau đây:
Tự nguyện: mọi các nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX; xã viên có quyền ra khỏi HTX theo Điều lệ HTX.
Dân chủ, bình đẳng và công khai: xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX và có phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác được quy định trong Điều lệ HTX.
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tự quyết định về phân phối thu nhập.
HTX và phát triển cộng đồng: xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tạp thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; hợp tác giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Điều 2 Nghị định số 177/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật TX năm 2003.
Các hình thức cơ bản của HTXNN:
HTXNN làm dịch vụ: về hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp tách ra làm chức năng dịch vụ cho nông nghiệp, bao gồm:
+ Dịch vụ các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp
+ Dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp
+ Dịch vụ quá trình tiếp theo của quá trình sản xuất nông nghiệp.
HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ
HTX sản xuất nông nghiệp.
2.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của HTXNN ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang.
Tình hình hoạt động của các HTXNN ở ĐBSCL hiện nay vẫn chưa phát triển mạnh, tỉ lệ giải thể còn cao. Bên cạnh đó có rất nhiều HTX còn hoạt động mang tính hình thức.
Ngoài các đặc trưng chung cơ bản của HTXNN, HTXNN ở ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang còn có các đặc trưng sau:
Các HTXNN nhìn chung có quy mô nhỏ (vốn điều lệ từ 100 triệu đến 1 tỉ đồng). Do vậy đa số các HTX không có nguồn vốn đủ để mở rộng quy mô.
Loại hình hoạt động chủ yếu của HTXNN là cung cấp dịch vụ cho xã viên chẳng hạn như dịch vụ thủy lợi, cung ứng giống, vật tư nông nghiệp, dịch vụ làm đất, xử lý sau thu hoạch, … Hiện tại nơi đây vẫn chưa phổ biến hình thức HTX sản xuất nông nghiệp.
Mỗi tỉnh có liên minh HTX để liên kết các HTX địa phương lại với nhau, Liên minh HTX làm công tác tập huấn kỹ thuật canh tác theo tiêu chuẩn chất lượng, nghiên cứu cung ứng giống thuần chủng, tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, …
2.1.2. Vị Trí và vai trò của Hợp tác xã nông nghiệp trong nền kinh tế.
2.1.2.1. Vị trí.
Không giống các loại hình doanh nghiệp khác, HTXNN mang tính đặc thù là sự hợp tác tự nguyện của các thành viên trong nông nghiệp nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Như vậy sự ra đời của HTXNN là mang lại những lợi ích thiết thực cho xã viên.
Khoảng 80% GDP của cả nước là nông nghiệp. Điều đó cho thấy sự quan trọng của nông nghiệp, và của các HTXNN đối với nền kinh tế. HTXNN giúp các nông hộ liên kết lại với nhau, tránh tình trạng sản xuất phân tán nhỏ lẻ đang là vấn đề phổ biến hiện nay. Bên cạnh đó, HTXNN còn cung cấp các dịch vụ cho xã viên của mình từ khâu cung ứng nguyên vật liệu đầu vào như: giống, phân bón, thuốc từ sâu,… cho đến dich vụ thuỷ lợi hướng dẫn kỹ thuật canh tác trong quá trình sản xuất cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ, người nông dân không thể tự mình cạnh tranh với các nông sản của các nước khác mà phải liên kết với nhau thông qua các HTXNN hay liên minh HTX để cùng sản xuất ra sản phẩm đồng nhất, đủ tiêu chuẩn chất lượng, hạ thấp chi phí sản xuất, đồng thời tìm đầu ra cho nông sản. Vấn đề chèn ép giá hiện nay đang diễn ra rất phổ biến bặc biệt là ở ĐBSCL khi mà nông dân sản xuất xong không biết bán cho ai, giá bao nhiêu. Phần đông dân số nước ta là nông dân, đất nước dựa vào nông nghiệp để phát triển nhưng nông dân lại là những người nghèo nhất. Như vậy muốn đưa đất nước phát triển đi lên, trước hết phài tìm cách làm giàu cho chính những người nông dân. Trong mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, sự phát triển đúng đắn các mô hình HTXNN là một yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công.
2.1.2.2. Vai trò.
HTXNN là hình thức kinh tế tập thể của nông dân, vì vậy hoạt động của HTXNN có tác động to lớn, tích cực đến hoạt động của sản xuất hộ nông dân. Nhờ có hoạt động của HTXNN, các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời, đầy đủ và đảm bảo chất lượng, các khâu sản xuất tiếp theo được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được nâng lên.
Thông qua hoạt động dịch vụ, vai trò điều tiết sản xuất của HTXNN được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung chuyên môn hóa.
HTX còn là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới hộ nông dân, vì vậy hoạt động của HTXNN có vai trò cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu quả. HTXNN ở những vùng chuyên môn hóa, còn là hình thức thể hiện mối liên minh công nông, đặc biệt khâu sản xuất nguyên liệu và chế biến nông sản.
Trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân, hoạt động của HTX là đối trọng buộc các đối tượng khác phục vụ tốt cho hộ nông dân.
Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu.
( Số liệu thứ cấp được thu thập từ:
- Các ấn phẩm là công trình nghiên cứu trước đây của các tác giả được liệt kê ở phần tài liệu tham khảo về những đề tài có liên quan.
- Các báo cáo của Sở Nông nghiệp và UBND ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang.
- Internet.
( Số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp Ban Chủ nhiệm các HTX và Lãnh Đạo Chính quyền địa phương nơi HTX hoạt động.
2.2.2 Phương pháp phân tích số liệu.
Mục tiêu 1: Dùng phương pháp thống kê mô tả thông qua các biểu bảng để đánh giá.
Thống kê mô tả là một phương pháp thống kê dựa vào các số liệu không gian và thời gian để mô tả những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu thập được từ nghiên cứu thực nghiệm qua các cách thức khác nhau.
Mục tiêu 2: Dùng phương pháp hồi quy tuyến tính để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mô hình hoạt động của HTXNN.
Phân tích hồi quy là một phân tích thống kê để xác định xem các biến độc lập (biến thuyết minh) quy định các biến phụ thuộc (biến được thuyết minh) như thế nào.
Phương trình hồi quy:
Y = β1 + β2X2 + β3X3 + β4X4 + … + βkXk + U
Trong đó:
Y: là biến phụ thuộc phản ánh hiệu quả hoạt động của HTXNN
β: Các hằng số tự do.
X: Biến độc lập phản ánh các nhân tố ảnh hưởng được đưa vào mô hình hồi quy để kiểm định.
U: Sai số của mô hình.
Mục tiêu 3: Dùng phương pháp thống kê suy luận để kiểm định các giả thuyết, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển HTXNN trong tương lai.
Thống kê suy luận là phương pháp đặt ra giả thuyết và tiến hành kiểm định giả thuyết dựa trên độ tin cậy cho trước.
Chương 3
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN HTXNN Ở BA TỈNH VĨNH LONG – AN GIANG – TIỀN GIANG.
Tổng quan về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ở ba tỉnh Vĩnh Long – An Giang – Tiền Giang.
3.1.1. Điều kiện tự nhiên.
3.1.1.1. Vị trí địa lý.
Cả ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Tiền Giang đều nằm trong khu vực ĐBSCL, một trong hai vựa lúa lớn nhất cả nước, nằm ở cực nam Tổ quốc. Vì thế, cả ba tỉnh đều có đặc điểm chung là địa hình bằng phẳng với hệ thống sông ngòi chằng chịt, được bồi đắp một lượng lớn phù sa hằng năm từ hệ thống hạ lưu sông Mekong, thuận lợi cho giao thông cả thủy lẫn bộ và chủ yếu phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, ở mỗi tỉnh vẫn có những nét đặc trưng riêng, cụ thể:
Vĩnh Long: Nằm ở toạ độ địa lý 10,150 vĩ độ Bắc, 105,580 kinh độ Ðông, cách thủ đô Hà Nội khoảng 1.847 km. Vĩnh Long nằm ở trung tâm ĐBSCL. Phía Đông Nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía Tây Nam giáp thành phố Cần Thơ, phía Tây Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Tiền Giang và Bến Tre.
Vĩnh Long cũng nằm trên tuyến hành lang Đông - Tây của vận tải quốc tế đường biển và đường sông từ cửa Tiểu và cửa Định An vận chuyển hàng hoá đi Campuchia và tuyến quốc lộ 54 từ Trà Vinh xuyên qua Vĩnh Long lên Đồng Tháp và biên giới Campuchia. Về mặt địa chính trị, nó có thể được xem là trung tâm của ngã sáu đi trực tiếp đến 8 tỉnh, thành phố trong vùng. Đó là quốc lộ 1A đi qua Tiền Giang, Long An và thành phố Hồ chí Minh theo hướng bắc và đi Cần Thơ theo hướng Nam, quốc lộ 80 đi Sa Đéc, An Giang, quốc lộ 30 Cao lãnh và vùng Đồng Tháp Mười, quốc lộ 57 đi Bến Tre và quốc lộ 53 đi Trà Vinh. Nếu lấy thành phố Vĩnh Long làm tâm thì trong bán kính 100 km, từ Vĩnh Long có thể đi đến 10 tỉnh, thành của ĐBSCL (ngoại trừ Bạc Liêu và Cà Mau). Hơn thế nữa, Cầu Mỹ Thuận và cầu Cầu Thơ sẽ biến Vĩnh Long thành chiếc cầu lớn nối liền các tỉnh phía Bắc sông Tiền với các tỉnh phía Nam Sông Hậu. Nối liền miền Đông với Miền Tây Nam bộ, nối liền vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với vựa lúa ĐBSCL.
Tỉnh Vĩnh Long có dạng địa hình khá bằng phẳng. Với dạng địa hình đồng bằng ngập lụt cửa sông, tiểu địa hình của Tỉnh