Đề tài Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện Nay - Hướng hoàn thiện

Hiện nay, vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài đang trở thành một vấn được rất nhiều các nước trên thế giới quan tâm. Và vấn đề này được quy định cụ thể hơn trong pháp luật của mỗi nước. Đối với VN, chế định NCN có yếu tố nước ngoài là một chế định quan trọng trong hệ thống QPPL về bảo vệ quyền trẻ em. Bài viết sau đây xin được đưa ra một số nhìn nhận ban đầu về vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài ở VN hiện nay và hướng hoàn thiện.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2284 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện Nay - Hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời mở đầu. Hiện nay, vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài đang trở thành một vấn được rất nhiều các nước trên thế giới quan tâm. Và vấn đề này được quy định cụ thể hơn trong pháp luật của mỗi nước. Đối với VN, chế định NCN có yếu tố nước ngoài là một chế định quan trọng trong hệ thống QPPL về bảo vệ quyền trẻ em. Bài viết sau đây xin được đưa ra một số nhìn nhận ban đầu về vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài ở VN hiện nay và hướng hoàn thiện. B. Nội dung: Tình hình NCN có yếu tố nước ngoài ở VN hiện nay và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật. I, Những vấn đề chung về NCN có yếu tố nước ngoài 1. Chế định NCN và NCN có yếu tố nước ngoài. NCN là một QHXH mang tính nhân văn sâu sắc. Đó là việc trẻ em đi làm con nuôi gia đình khác nhằm xác lập mối quan hệ cha mẹ và con giữa người con nuôi với người nuôi nhằm đảm bảo cho người con nuôi được chăm sóc và giáo dục, tạo điều kiện cho trẻ em không nơi nương tựa có một mái ấm gia đình thực sự, để các trẻ em đó có khả năng được phát triển toàn diện. NCN là một chế định pháp lí trong hệ thống pháp luật theo đó khi các bên tham gia vào quan hệ NCN phải chịu sự điều chỉnh pháp luật có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. NCN có yếu tố nước ngoài là một chế định có những điểm đặc thù. NCN có yếu tố nước ngoài là việc NCN có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài hoặc việc NCN được xác lập ở nước ngoài 2. Các cơ sở pháp lí đối với việc NCN có yếu tố nước ngoài Vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài ngày càng được cộng đồng quốc tế quan tâm và pháp điển hóa. Các văn bản pháp luật quốc tế NCN có yếu tố nước ngoài đều đề cao bảo vệ quyền trẻ em, cụ thể là: tuyên bố của Liên Hợp Quốc năm 1986 về các nguyên tắc xã hội và pháp lí liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc thu xếp NCN ở trong và ngoài nước. Tiếp đến là Công Ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em 1989, và Công ước Lahay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 3. Nguyên tắc giải quyết việc NCN có yếu tố nước ngoài Với chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau thì pháp luật của mỗi nước là khác nhau. Cho nên, cùng điều chỉnh một vấn đề thì pháp luật áp dụng của mỗi nước khác nhau dẫn đến vấn đề XĐPL giữa các nước Theo pháp luật của các nước để giải quyết XĐPL NCN có yếu tố nước ngoài thì đa số các nước thường áp dụng nguyên tắc luật nhân thân của người NCN và người được nhận làm con nuôi Theo pháp luật VN, vấn đề giải quyết NCN có yếu tố nước ngoài đã quy định khá cụ thể ở trong NĐ 68/2002 NĐ- CP và ở NĐ 69/2006, thông tư 08/2006 và một số các văn bản hướng dẫn có liên quan khác. Ở đó đã quy định về các điều kiện để cho và nhận NCN có yếu tố nước ngoài ( điều 35 NĐ 69), bao gồm các điều kiện trẻ em được nhận làm con nuôi, điều kiện đối với người xin nhận con nuôi, trình tự, thủ tục giải quyết vấn đề cho nhận con nuôi quốc tế… II. Tình hình NCN có yếu tố nước ngoài hiện nay của Việt Nam NCN có yếu tố nước ngoài là hiện tượng phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây và chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định. Cụ thể như sau: 1, Những thành tựu đạt được. 1.1. Về khung pháp luật quốc gia: Chúng ta đã tạo được khung pháp lí khá dầy đủ quy định về vấn đề về NCN có yếu tố nước ngoài. Đối với nước ta, hệ thống các quy phạm về NCN có yếu tố nước ngoài được ban hành mới hoặc sửa đổi bổ sung đã hình thành nên một chế định pháp lí tương đối đầy đủ và chi tiết. NĐ 68/2002/NĐ-CP là VBPL quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ chế giải quyết vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài là bước phát triển quan trọng so với NĐ 184/1994 trong việc cải cách cơ chế, quy trình, thủ tục, hồ sơ giấy tờ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo hướng minh bạch hơn, rõ ràng và cụ thể hơn, Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em VN làm con nuôi người nước ngoài theo Nghị định 68 bước đầu đã tiếp cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để các cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Nghị định 69/2006 và thông tư 08/2006 hướng dẫn thực hiện các quy định về NCN có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích cải thiện môi trường pháp lý theo hướng chặt chẽ và minh bạch, ngày càng gần hơn với những thông lệ quốc tế quy định tại công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác về NCN quốc tế. 1.2. Việt Nam đã kí kết nhiều hợp định hợp tác về NCN với các nước và tạo ra nhiều mái ấm gia đình cho các trẻ em, và cải thiện đời sống của nhiều trẻ em tại cơ sở nuôi dưỡng. * Các hiệp định hợp tác về NCN của nước ta với các nước: Đến nay VN đã kí được 16 hiệp định hợp tác con nuôi với các nước và vùng lãnh thổ bao gồm: Pháp ( 01/02/ 2000), Đan Mạch (26/5/2003), Italia (13/6/2003), Ailen ( 23/09/2003, hết hạn vào 01/05/2009), Cộng đồng nói tiếng Pháp Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Đức Vương quốc Bỉ (2005), Cộng đồng nói tiếng Hà Lan Vương quốc Bỉ (2005), 3 hiệp định với Bỉ chưa có hiệu lực vì phía Bỉ chưa phê chuẩn ), Mĩ (21/06/ 2005, hết hạn vào 01,09/2008), Canada (27/06/2005), Bang Quebec_Canada (15/09/2007), Thụy sĩ (20/12/2005), Ontario_Canada (03/04/2006), Bristish Columbia_Canada (15/9/2007), Alberta_Canada (09/06/2008). Các hiệp định này là cơ sở quan trọng trong việc giải quyết NCN giữa công dân các nước kí kết. Qua các hiệp định này đã cho thấy cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của VN với các cơ quan tổ chức nước ngoài trong quá trình thực hiện Hiệp định hợp tác về NCN cũng được cải tiến đáng kể, đặc biệt là với các Đại sứ quán, lãnh sự quán và cơ quan quản lý nhập cư của các nước, đã tạo điều kiện để nước ta thực hiện được đầy đủ các cam kết theo Hiệp định. Định kỳ hàng năm hoặc 2 năm Nhóm hỗn hợp gồm chuyên gia của nước ta và các nước ký kết Hiệp định nhóm họp để kiểm điểm tình hình thực hiện Hiệp định, cùng nhau bàn bạc để tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc, nhằm đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các Hiệp định, tăng cường hợp tác NCN với các nước. * Tìm được các mái ấm gia đình cho các trẻ em: Từ năm 2003 - 2008 chúng ta đã có trên 6.000 trẻ em tìm được mái ấm gia đình thay thế, theo cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa VN và nước nhận thông qua các Hiệp định hợp tác về NCN đã được ký kết. Đây là việc làm nhân đạo để tăng cường hơn nữa sự hợp tác hữu nghị giữa VN với các nước, thiết lập nên mối quan hệ thân thiện với các dân tộc trên thế giới và góp phần quan trọng thực hiện chính sách của Đảng về đại đoàn kết dân tộc đối với người VN định cư ở nước ngoài. Qua các báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em VN làm con nuôi, con nuôi VN hội nhập nhanh với môi trường nước nhận, được chăm sóc chu đáo, nhiều em phát triển được tài năng của mình, các gia đình cha mẹ nuôi luôn ý thức hướng cho trẻ em tìm hiểu về cội nguồn quê hương đất nước, nơi trẻ em sinh ra như cho các em học tiếng Việt... Và trong thời gian qua cũng có nhiều trẻ em khuyết tật, tàn tật, bị bệnh hiểm nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau đó được giải quyết cho làm con nuôi (thông qua thủ tục tại Đại sứ quán VN tại nước sở tại). Điều đó không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian cho đương sự, mà còn thể hiện sự cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này * Cải thiện đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng. Theo thông báo của các địa phương, hiện cả nước có 91/378 cơ sở nuôi dưỡng có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Đây là những cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, chủ yếu do Sở LĐTBXH quản lý, là nơi tiếp nhận các dự án hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài. Qua báo cáo của các địa phương và các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại VN cho thấy, việc thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác NCN quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi dưỡng, sau một thời gian đã trở nên khang trang hơn; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn do nhận được nguồn hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại địa bàn. Mức hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em nhiều nơi đạt khoảng 1 triệu /1 trẻ/tháng. Ngoài ra, nhiều trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng đồng còn được khám chữa bệnh miễn phí do có sự hỗ trợ từ các tổ chức con nuôi và các tổ chức nhân đạo nước ngoài khác, được cung cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ tàn tật được cung cấp xe lăn, các dụng cụ thiết yếu cho trẻ tàn tật, trẻ bị bệnh tim được can thiệp kịp thời, chăm sóc tốt. Theo báo cáo chưa đầy đủ, từ 2003 - 6/2008, tổng số 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài đã hỗ trợ nhân đạo (bằng tiền và vật chất) cho gần 100 cơ sở nuôi dưỡng khoảng 160 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2007 đạt gần 60 tỷ đồng (1) 1.3. Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được nhanh chóng và thuận tiện hơn. Theo NĐ 68/2002/ thì thủ tục trình tự giải quyết việc NCN quốc tế được cải tiến một bước đáng kể so với NĐ 184/1994. Thời hạn giải quyết việc NCN quốc tế được rút còn 4 tháng; thời gian xử lý ở từng khâu của các cơ quan liên quan được quy định rõ ràng, hợp lý hơn, ngắn hơn; các giấy tờ được thiết kế theo mẫu dễ dàng cho việc thực hiện. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước (Cục Con nuôi, STP, Công an tỉnh, Văn phòng UBNDT, Cơ sở nuôi dưỡng) được quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn ở từng khâu liên quan trong toàn bộ quá trình xử lý hồ sơ của người xin con nuôi và hồ sơ của trẻ em. * Về phía Cục Con nuôi, Cục đã phân công, theo dõi và đôn đốc việc thực hiện của các chuyên viên trong Cục, đồng thời cũng đôn đốc các cơ quan hữu quan khác ở trung ương và địa phương đảm bảo thời hạn giải quyết. Các giấy tờ trong hồ sơ của người xin con nuôi được kiểm tra, xem xét kỹ theo quy định pháp luật của nước nhận và Hiệp định. Các giấy tờ trong hồ sơ của trẻ em cũng được kiểm tra trên cơ sở quy định của PLVN. Bất kỳ một nghi vấn nào trong hồ sơ đều được xem xét và yêu cầu địa phương giải trình. * Ở địa phương, đại đa số các STP đã có bộ phận chuyên trách xử lý về hồ sơ con nuôi quốc tế, cán bộ tư pháp và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em tại địa phương hàng năm đều được Cục Con nuôi tập huấn về nghiệp vụ. Việc cấp hộ chiếu cho trẻ em xuất cảnh VN đã được cải tiến một bước, trước đây việc giải quyết việc cấp hộ chiếu là trong thời hạn 20 ngày, thì giờ rút xuống còn 05 ngày. Cục Con nuôi đã phối hợp chặt chẽ với A.18 BCA để hướng dẫn cho đương sự về thủ tục xin cấp hộ chiếu cho trẻ em sau khi được giải quyết cho làm con nuôi, đảm bảo rút ngắn thời hạn cấp hộ chiếu để tạo thuận lợi cho trẻ em xuất cảnh. Kể cả việc cấp thị thực “nóng” tại cửa khẩu cho một số cha mẹ nuôi người nước ngoài vì lý do đột xuất cũng đã được quan tâm hơn. Thời hạn cha mẹ nuôi đến VN để làm lễ giao nhận con nuôi và làm các thủ tục khác để đưa con nuôi về nước cũng được rút ngắn đáng kể (khoảng trên dưới 03 tuần), phù hợp với thời gian nghỉ phép của họ. Đây là điều kiện thuận lợi để cha mẹ nuôi có thể thu xếp công việc đến VN mà không ảnh hưởng lớn đến công việc làm ăn ở nước ngoài. 1.4. Vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài đã được tăng cường kiểm tra, thanh tra. Hàng năm, BTP đều phối hợp cùng các cơ quan khác ở trung ương như BCA, Bộ LĐTBXH, tiến hành kiểm tra tình hình NCN quốc tế ở các địa phương. Nội dung các cuộc kiểm tra khá toàn diện, đặc biệt về việc xác minh nguồn gốc trẻ em; việc bảo đảm các thủ tục, hồ sơ, giấy tờ nhất là những giấy tờ liên quan đến việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng; việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo. Ngoài ra, BTP cũng yêu cầu các địa phương hàng năm tự tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ các vướng mắc, bất cập, vi phạm để báo cáo về Bộ xử lý. Bên cạnh đó thì BTP có kế hoạch kiểm tra định kỳ các Văn phòng con nuôi nước ngoài trên phạm vi cả nước. Hoạt động kiểm tra, thanh tra đã góp phần đáng kể trong công tác quản lý, nhất là việc xử lý, ngăn ngừa các vi phạm trong lĩnh vực giải quyết các vụ việc về NCN quốc tế trong thời gian qua. 1.5. Hoạt động hợp tác quốc tế về NCN ngày càng được mở rộng Với tư cách là Cơ quan trung ương theo các Hiệp định hợp tác về NCN quốc tế, Cục Con nuôi - BTP thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động với Cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế của các nước ký kết và các nước hữu quan khác, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện tốt các quy định của Hiệp định và xử lý các vụ việc liên quan đến NCN có yếu tố nước ngoài. Việc trao đổi với các Đại sứ quán, Lãnh sự quán tại VN của các nước ký kết Hiệp định về các vấn đề NCN cũng được duy trì thường xuyên, kịp thời phối hợp xử lý các vấn đề tác nghiệp liên quan đến hồ sơ NCN và các thủ tục, trình tự liên quan đến việc giải quyết NCN. Trong thời gian qua, Cục Con nuôi – BTP đã tổ chức 3 cuộc đối thoại trực tiếp tại HN với các nhân viên lãnh sự của các nước ký kết để trao đổi về các vấn đề mà phía nước ngoài đặt ra nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực NCN quốc tế. 2, Những hạn chế. Bên cạnh những kết quả đã đạt được như nêu trên, hiện nay tình hình thực hiện pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể như sau: 2.1. Sự nhận thức chưa đúng về vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài. Mặc dù việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài đã tiến hành gần 20 năm nay, song trong một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương còn có sự nhận thức chưa đúng NCN quốc tế nói riêng; thậm chí còn mơ hồ về tính nhân đạo, nhân văn của lĩnh vực con nuôi quốc tế, cũng như về các vấn đề pháp lý có liên quan. 2.2. Chưa bảo đảm ưu tiên việc NCN trong nước trước khi cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài Việc cho NCN ở nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Đây là một yêu cầu quan trọng của Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác NCN quốc tế mà VN đang chuẩn bị ký. Nhưng hiện nay, yêu cầu này chưa được bảo đảm thực thi nghiêm túc ở nước ta, do còn thiếu các biện pháp kiên quyết và hữu hiệu. Theo Nghị định 68/2002, trước khi giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm thông báo 30 ngày trên phương tiện thông tin đại chúng cấp tỉnh về việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Nhưng trên thực tế, nhiều nơi chỉ làm một cách hình thức, chiếu lệ, thậm chí có nơi chỉ nộp giấy xác nhận đã thông báo trên đài phát thanh hoặc trên vô tuyến truyền hình, còn thực tế có thông báo hay không, lại không có sự kiểm tra. Như vậy, có thể nói, bản thân PL hiện hành của nước ta về lĩnh vực này cũng chưa có các quy định nhằm bảo đảm ưu tiên việc NCN trong nước đối với trẻ em, cho nên các CQNN, các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cũng chưa thực sự quan tâm đến việc này, mà chỉ chú ý vào việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. 2.3 Về việc quản lý thông tin của trẻ khi đã được giao làm con nuôi nước ngoài: Mặc dù tại K2 Đ47 NĐ 69/2006 quy định người xin nhận con nuôi phải làm bản cam kết về việc định kỳ 06 tháng một lần thông báo cho UBND cấp tỉnh và cơ quan con nuôi quốc tế về tình hình phát triển của con nuôi trong 3 năm đầu tiên, sau đó mỗi năm tiếp theo thông báo một lần cho đến khi con nuôi đủ 18 Tuổi, nhưng trong thực tế việc thực hiện cam kết chủ yếu dựa vào sự tự nguyện của cha mẹ mà chưa có các chế tài cụ thể đối với những trường hợp vi phạm cam kết. Quy định thiếu chặt chẽ trong vấn đề này dễ gây ra tình trạng nới lỏng kiểm soát việc trẻ có được chăm sóc và nuôi dưỡng phù hợp với mục đích nhân đạo hay không. 2.4. Chưa quản lý chặt chẽ các hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam Thời gian qua trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Do pháp luật các nước quy định khác nhau về quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là về nguyên tắc hoạt động, nên các tổ chức con nuôi nước ngoài đến VN hoạt động cũng với các phương thức khác nhau, Việc cho phép tổ chức con nuôi vào VN hoạt động là do Cơ quan trung ương nước ngoài hữu quan cấp phép. Nhưng nhiều tổ chức con nuôi sang VN mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của một cơ quan trung ương ở cấp liên bang. Và dẫn đến, số đông các tổ chức con nuôi vào VN hoạt động, tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho tình hình giải quyết việc NCN ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó kiểm soát. 2.5. Thủ tục, trình tự giải quyết việc NCN còn bất cập + Về thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi: Việc quản lý các dữ liệu về trẻ em có đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi hiện nay là do cơ sở nuôi dưỡng trực tiếp thực hiện. Theo yêu cầu của PLHH, các cơ sở nuôi dưỡng này vẫn phải gửi danh sách trẻ em có đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài về BTP. Nhưng trên thực tế, chỉ là sự cung cấp danh sách về số lượng và họ tên của trẻ em chưa kèm theo hồ sơ đầy đủ để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi. Đây chỉ là hình thức để thông báo, bởi thực chất, Cơ quan Trung ương không thực hiện việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, mà các cơ sở nuôi dưỡng đã phối hợp với các tổ chức con nuôi nước ngoài giới thiệu trẻ em cho các gia đình xin nhận con nuôi. Quyền giới thiệu trẻ em nào là do cơ sở nuôi dưỡng quyết định. + Việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cũng chỉ được thực hiện có tính hình thức. Dù có nhiều địa phương đã giao toàn bộ trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ trẻ em cho cơ sở nuôi dưỡng và chuyển cho STP kiểm tra, nhưng STP cũng chỉ kiểm tra về hình thức, chiếu lệ rồi làm công văn gửi Cục Con nuôi. Để bảo đảm an toàn về hồ sơ của trẻ em, nhiều địa phương đã chuyển tất cả hồ sơ của trẻ em cho cơ quan Công an tỉnh xác minh, cho ý kiến. Nhưng đại đa số các trường hợp, CQCA cũng chỉ cho ý kiến dưới góc độ an ninh, chưa chú ý đến việc xác minh làm rõ về nguồn gốc thực tế của trẻ em. Sau khi có ý kiến của CQCA, thì Sở STP chuyển hồ sơ cho Cục Con nuôi. Do quy định “cắt khúc” về trách nhiệm của các cơ quan như vậy, cho nên nếu có sai sót về hồ sơ của trẻ em, thì không cơ quan nào chịu trách nhiệm hoàn toàn, mà đều có sự liên đới. 2.6. Thiếu sự đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan Sự phối hợp giữa các cơ quan thuộc chính quyền địa phương cũng còn hạn chế. Thậm chí có nơi chính quyền địa phương còn thông đồng với những người trung gian, môi giới trong việc thu gom trẻ em, làm sai lệch hồ sơ của trẻ em để trục lợi. Ở các cơ quan cấp tỉnh, nhiều nơi chưa ban hành quy chế phối hợp giữa các CQTP, CA, LĐTBXH, hoặc tuy có ban hành, nhưng thực tế chỉ mang tính hình thức. Mối quan hệ giữa STP và SLĐTBXH ở một số tỉnh còn chưa chặt chẽ, công tác quản lý của cơ quan cấp tỉnh ở một số địa phương đối với các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cấp huyện, do cấp huyện thành lập, cũng còn nhiều sơ hở. Ở cấp trung ương còn thiếu sự hợp tác thường xuyên và chặt chẽ giữa BTP và Bộ LĐTBXH trong việc chỉ đạo các vấn đề liên quan đến chức năng của cả hai bộ trong lĩnh vực con nuôi quốc tế 2.7. Còn thiếu sự minh bạch trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài Yêu cầu về sự minh bạch tài chính liên quan đến việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng luôn được các quốc gia đặt ra. Trên thực tế ở nước ta, các khoản hỗ trợ nhân đạo phần lớn là do cơ sở nuôi dưỡng tiếp nhận và quản lý. Cơ sở nuôi dưỡng sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này và có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền của địa phương theo quy định. Nhưng qua kiểm tra tại một số địa phương cho thấy, cơ chế tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này khá lỏng lẻo. Phần lớn các khoản hỗ trợ này được thực hiện bằng tiền mặt, chỉ một số ít các tổ chức thực hiện bằng chuyển khoản. Các báo cáo của cơ sở nuôi dưỡng về việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này chưa đầy đủ và chính xác. Công tác quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài trong công tác hỗ trợ nhân đạo cũng còn nhiều hạn chế. 2.8. Làm sai lệch nguồn gốc trẻ em Hiện nay, một số địa phương đã làm sai lệch nguồn gốc của trẻ em để cho làm con nuôi. Việc làm sai lệch nguồn gốc trẻ em, đã làm ảnh hưởng đ