Nhiên liệu sinh học thường được xem là có tính năng trung tính cacbon – đó là,
lượng cacbon đioxit thải ra khi đốt xấp xỉ bằng lượng cacbon đioxit chúng cô lập
khi ở dạng thực vật. Bằng cách đó, trồng các loại cây nhiên liệu sinh học giúp làm
dịu tình trạng nóng lên toàn cầu, vì chúng hoạt động như “chậu rửa cacbon”, làm
giảm lượng CO2.
Bộ Công nghiệp đang xây dựng đề án Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm
2015, tầm nhìn 2020, với mục tiêu sản xuất xăng E10 và dầu sinh học nhằm thay
thế một phần nhiên liệu truyền thống hiện nay.
Theo đề án, trong giai đoạn 2006-2010, Việt Nam sẽ tiếp cận công nghệ sản xuất
nhiên liệu sinh học từ sinh khối, xây dựng mô hình thí điểm phân phối nhiên liệu
sinh học tại một số tỉnh, thành; quy hoạch vùng trồng cây nguyên liệu cho năng
suất cao; đào tạo cán bộ chuyên sâu về kỹ thuật.
16 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3935 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tình hình sử dụng nhiên liệu sinh học trên thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BÁO CÁO NHIÊN LIỆU SINH HỌC
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NHIÊN LIỆU SINH
HỌC TRÊN THẾ GIỚI
2
I. SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH THẾ GIỚI:
Thay thế với hàm lượng cacbon thấp, nhưng nếu tính trung bình thì sẽ phát
xạ nhiều cacbon dioxit hơn hơn so với việc đùng xăng trong vài thập kỉ tới.
(Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science)
Có thể sản xuất nhiên liệu sinh học từ các sản phẩm thừa của sản xuất nông nghiệp
Đẩy mạnh phát triển nhiên liệu sinh học.
Nhiên liệu sinh học thường được xem là có tính năng trung tính cacbon – đó là,
lượng cacbon đioxit thải ra khi đốt xấp xỉ bằng lượng cacbon đioxit chúng cô lập
khi ở dạng thực vật. Bằng cách đó, trồng các loại cây nhiên liệu sinh học giúp làm
dịu tình trạng nóng lên toàn cầu, vì chúng hoạt động như “chậu rửa cacbon”, làm
giảm lượng CO2.
Bộ Công nghiệp đang xây dựng đề án Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm
2015, tầm nhìn 2020, với mục tiêu sản xuất xăng E10 và dầu sinh học nhằm thay
thế một phần nhiên liệu truyền thống hiện nay.
Theo đề án, trong giai đoạn 2006-2010, Việt Nam sẽ tiếp cận công nghệ sản xuất
nhiên liệu sinh học từ sinh khối, xây dựng mô hình thí điểm phân phối nhiên liệu
sinh học tại một số tỉnh, thành; quy hoạch vùng trồng cây nguyên liệu cho năng
suất cao; đào tạo cán bộ chuyên sâu về kỹ thuật.
Giai đoạn 2011-2015, sẽ phát triển mạnh sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học
3
thay thế một phần nhiên liệu truyền thống, mở rộng quy mô sản xuất và mạng lưới
phân phối phục vụ cho giao thông và các ngành sản xuất công nghiệp khác; đa
dạng hóa nguồn nguyên liệu.
Việc tìm và phát triển các nguồn nhiên liệu sinh học mới đang là hành động cần
thiết với mỗi quốc gia khi tình trạng suy giảm tài nguyên, nguồn năng lượng hiện
có đang ở mức báo động. Và vấn đề biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, hiệu
ứng nhà kinh và sự nóng lên của trái đất đang là điểm nóng.
Trong quá trình nghiên cứu các nhà khoa học tập trung vào nghiên cứu về loại
nhiên liệu tiên tiến được chế tạo từ gỗ và cây cỏ. Trong nghiên cứu này nhiên liệu
sinh học sẽ sản xuất ra từ vật liệu xeluloz với tên gọi "grassoline" (từ chữ grass -
"cỏ" và gasoline - "xăng").
Nó có thể được sản xuất ra từ hàng chục, hoặc hàng trăm các chất khác nhau: từ
các phế liệu gỗ ở dạng mạt cưa và đầu thừa đuôi thẹo của kết cấu gỗ, cho đến các
phế thải nông nghiệp như thân cây ngô và rơm rạ, thậm chí là cả "thực vật năng
lượng" - các loài cỏ phát triển nhanh, các loại cây được trồng chuyên dùng làm
nguyên liệu đầu vào. Phần lớn những thực vật năng lượng này có thể phát triển
trên các vùng đất thảo nguyên, không dùng làm đất nông nghiệp.
Cây "Thầu dầu" một loại nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học
Cần đánh giá trước tác động
Tuy nhiên khi phát triển một cái mới, ứng dụng cái mới cũng cần phải có những
nghiên cứu tầm ảnh hưởng, tác động tiêu cực của nó môi trường. Không có nguồn
nhiên liệu nào hoàn toàn tốt cho môi trường.
4
Khi nghiên cứu ra một thế hệ năng lượng sinh học mới, được cho là loại năng
lượng thay thế với hàm lượng cacbon thấp, nhưng nếu tính trung bình thì sẽ phát
xạ nhiều cacbon dioxit hơn hơn so với việc đùng xăng trong vài thập kỉ tới. (Theo
nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science)
Những loại nhiên liệu mới thường được chế tạo từ gỗ, cây cỏ với ý nghĩa là cắt
giảm lượng phát xạ cacbon so với việc sử dụng các loại xăng truyền thống. Thế
nhưng theo kết quả nghiên cứu được công bố thực tế các nhiên liệu sinh học đó sẽ
dẫn đến việc phát xạ cacbon cao hơn sử dụng xăng nếu tính trung bình cho một
đơn vị năng lượng trong giai đoạn 2000 – 2030. Nguyên nhân là do đất đai cần
thiết để trồng các loại cây gỗ trưởng thành nhanh và các loại cỏ nhiệt đới thay thế
cho cây lương thực sẽ dẫn đến sự phá rừng để có thêm đất trồng, và đây lại chính
là nguồn phát xạ cacbon cực mạnh.
Những loại cây trồng nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học đòi hỏi các loại
phân bón nitơ, đây lại là một nguồn phát sinh hai loại khí nhà kính là cacbon
dioxit và oxít nitơ (ni tơ hóa trị III) Chính vì thế việc chúng ta phát triển nhiên liệu
sinh học xenlulozen bằng cách nào thì vẫn gây ra phát xạ khí nhà kính và ảnh
hưởng tới khí hậu.
Viện Môi Trường Stockholm (Thụy Điển) cũng cảnh báo rằng, các cây nhiên liệu
sinh học còn có thể tạo nên một sự căng thẳng không chịu nổi về nguồn cung cấp
nước. Viện cho rằng thay thế 50% nhiên liệu cũ bằng nhiên liệu sinh học để đáp
ứng nhu cầu về điện và nước sẽ cần đến hơn 12.000 kilomet khối nước một năm.
Ông Melillo lãnh đạo công trình nghiên cứu Jerry thuộc phòng thí nghiệm Sinh
học Đại dương Mỹ cho biết: “ Đây không phải là một cách chiến thắng thuyết
phục và rõ ràng nếu chúng ta không xem xét cẩn trọn vấn đề này về các hậu quả
ngắn và dài hạn thì chính chúng ta sẽ gánh chịu hậu quả.”
Những áp lực với môi trường, khí hậu, hệ sinh thái sẽ tăng lên khi việc phát triển
nguồn nguyên liệu sản xuất nhiên liệu sinh học sẽ cạnh tranh với nông nghiệp, bảo
vệ nguồn nước, đa dạng sinh thái và nhiều thứ khác. Những điều đó sẽ không có
lợi cho khí quyển. Điêu quan trọng là chúng ta phải tính toán kĩ những ảnh hưởng
tác động khi tập trung phát triển nguồn nhiên liệu sinh học trong tương lai.
Trong một có gắng ngăn chặn cuộc khủng hoảng nhiên liệu đang treo lơ lửng
trước mắt, các ngành công nghiệp đang xem xét rất nhiều nguồn nhiên liệu
thay thế để tiếp tục sản sinh ra năng lượng và giảm những ảnh hưởng đến
5
môi trường. Nhiên liệu sinh học đã trở thành một đề tai tranh luận trong lĩnh
vực giao thông với tiềm năng thay thế cho diesel, nhưng một số chuyên gia
đangcảnh báo rằng chúng có thể có nhiều nguy hại hơn những lợi ích đem lại.
Nhiên liệu sinh học có thể giảm bớt được 75% lượng phát thải CO2, điều này nghe
có vẻ rất tốt cho môi trường. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ở trường đại học
Leeds và tổ chức World Land Trust đã cảnh báo rằng những vụ thu hoạch nguyên
liệu để sản xuất nhiên liệu sinh học cho những chiếc xe thân thiện với môi trường
có thể thực sự còn nguy hại đến môi trường hơn nguồn nhiên liệu truyền thống mà
chúng thay thế.
Lượng phát thải CO2 do nhiên liệu sinh học chỉ bằng với khối lượng tự nhiên
trong vòng tròn của nó.
Một vùng rộng lớn đất tại các nước đang phát triển đang được làm khai hoang để
trồng mía đường và dầu cọ để phục vụ cho sản xuất nhiên liệu, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của nhiên liệu sinh học. Chúng được chuyển đổi thành nhiên liệu
6
sinh học – loại nhiên liệu thải ra CO2 ít hơn các loại nhiên liệu hóa thạch truyền
thống. Nhưng các nhà khoa học lại thấy rằng chúng sản sinh ra CO2 nhiều gấp 9
lần so với nhiên liệu truyền thống khi mà nhiên liệu sinh học lại được lớn nên từ
những vùng đất được đốt cháy từ những cánh rừng.
Một trong những lý do để phát quang thêm đất là để trồng nhiên liệu sinh học bởi
đất nông nghiệp chủ yếu được dùng để trồng trọt, chăn nuôi hay trồng thức ăn gia
súc. Do đó thật khó mà đáp ứng đủ nhiên liệu sinh học nếu không phát quang thêm
đất.
Các cánh đồng nguyên liệu ngày càng được mở rộng
Đồng tác giả trong nghiên cứu, Dominick Spracklen tại khoa Đất và Môi trường ,
Đại học Leeds cho biết nếu bạn quan tâm đến việc giảm phát thải CO2 thì nhiên
liệu sinh học không hề có tương lai. “Sự thật là nhiên liệu sinh học có ảnh hưởng
đến một phần nào đó của thế giới, Tổng lượng CO2 phát thải khi bạn phá bỏ
những cánh rừng cho những cánh đồng nhiên liệu sinh học lớn hơn rất nhiều so
với lượng CO2 giảm được từ nó trong 30 năm tới.”
7
Ông còn nhấn mạnh một điểm quan trọng về
đạo đức tiêu dùng và tiêu dùng nói chung, về
nhiên liệu rằng mọi người đang bị mờ mắt
bởi những gì xảy ra trên thế giới và có thể
làm nó tệ hơn.
Spracklen cho biết rằng gìn giữ những cánh
rừng, thảo nguyên và khôi phục rừng cùng
những đồng cỏ là cách tốt nhất để cứu hình
tinh của chúng ta. Bất kỳ cố gắng nào đều
phải kết hợp được chặt chẽ giảm nhiên liệu
cùng với phát triển nguồn nhiên liệu mới. Rõ
ràng là chúng ta cần huy động những nhiên
liệu thay thế cho nhiên liệu hóa thạch trong
sản xuất như là một phần của giải pháp tìm
con đường bền vững để phát triển những cánh
đồng nhiên liệu sinh học cho nhu cầu năng lượng của chúng ta.
Các cánh rừng đang bị tàn phá để trồng nguyên liệu sản xuất sinh học
Báo cáo nhấn mạnh vào những cánh đồng nhiên liệu được lấy từ những vùng đất
được khai hoang từ rừng, nhưng cũng khuyến khích tạo nhiên liệu sinh học từ
Cellulosic – chúng dựa vào nguồn bền vững hơn gồm cỏ (gần như vô hạn) và
những cây hoang không cạnh tranh với các cánh đồng lương thực. Hiện còn đang
tranh cãi về việc phát triển công nghệ này sẽ có ảnh hưởng đến quá trình phát
triển rừng. Nhưng tín hiệu rõ ràng từ báo cáo này là những cách tiếp cận rộng cần
phải được theo đuổi sự bền vững cho tài nguyên của thế giới.
Nhiên liệu sinh học đã sẵn sàng tại
một số trạm nhiên liệu
8
Theo dự báo của các chuyên gia, đến năm 2025 Việt Nam về cơ bản cạn kiệt
tài nguyên dầu khí; từ chỗ xuất khẩu năng lượng (dầu thô, than), trong vòng
15 năm tới Việt Nam sẽ phải nhập năng lượng... Để giảm bớt sự phụ thuộc
vào dầu mỏ, than đá, đồng thời bù đắp sự thiếu hụt năng lượng trong tương
lai, nhiên liệu sinh học được coi là một giải pháp thay thế bền vững...
Sự lựa chọn mang tính toàn cầu
Tất cả các dạng nhiên liệu đều cần thiết và có vị trí xứng đáng trong từng giai
đoạn. Dầu mỏ đã có đóng góp to lớn trong hơn một thế kỷ qua và hiện nay vẫn là
dạng nhiên liệu chủ yếu. Xăng dầu và các sản phẩm hóa dầu đã đem lại văn minh
cho nhân loại. Nhưng nguồn dầu mỏ đang cạn kiệt dần và ngày càng trở nên đắt đỏ
trên phạm vi toàn cầu. Cùng đó, việc sử dụng năng lượng hóa thạch đang gây ra
những ảnh hưởng lớn đến khí hậu trái đất. Trong khi đó, nếu sử dụng nhiên liệu
sinh học (NLSH) sẽ giảm được 70% khí CO2 và 30% khí độc hại, có khả năng
cứu vãn thảm họa môi trường có thể xảy ra. Nhận thức rõ lợi ích lớn đó, NLSH
đang có xu hướng trở thành sự lựa chọn toàn cầu.
Hiện nay có khoảng 50 nước ở khắp các châu lục khai thác và sử dụng nhiên liệu
sinh học ở các mức độ khác nhau. Brasil là quốc gia đầu tiên sử dụng ethanol làm
nhiên liệu ở quy mô công nghiệp từ năm 1970. Tất cả các loại xăng ở quốc gia này
đều pha khoảng 25% ethanol (E25), mỗi năm tiết kiệm được trên 2 tỷ USD do
không phải nhập dầu mỏ. Mỹ là quốc gia sản xuất ethanol lớn nhất thế giới: năm
2006 đạt gần 19 tỷ lít, trong đó 15 tỷ lít dùng làm nhiên liệu - chiếm khoảng 3%
thị trường xăng; dự tính đến năm 2012 sẽ cung cấp trên 28 tỷ lít ethanol và diesel
sinh học, chiếm 3,5% lượng xăng dầu sử dụng. Trung Quốc cũng là một trong
9
những nước đầu tư lớn cho việc tập trung khai thác, sử dụng năng lượng tái tạo.
Năm 2010 đạt 2 tỷ lít và dự kiến năm 2020 sẽ đạt 10 tỷ lít.
Ngoài ra, hiện hầu hết các quốc gia thuộc châu âu đều có chương trình NLSH. Một
số nước châu Phi như Ghana, Tanjania... cũng đang tiếp cận đến nhiên liệu sinh
học. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là nước đã xây dựng và triển khai chương
trình NLSH khá bài bản và ngay nước bạn Lào cũng đang xây dựng nhà máy sản
xuất diesel sinh học ở ngoại ô thủ đô Vientiane.
II. Xu thế hội nhập của Việt Nam
Nhiên liệu sinh học đã được các nhà khoa học nước ta chú ý đến từ những năm
cuối của thế kỷ XX, nhưng chỉ là việc làm tự phát và kết quả cũng chỉ mang tính
định hướng hoặc học thuật. Từ sau năm 2000 đã có một số xí nghiệp, công ty, đơn
vị nghiên cứu tổ chức sản xuất NLSH nhưng cũng chỉ dừng lại ở những thử
nghiệm. Đến năm 2007, Thủ tướng Chính phủ mới chính thức phê duyệt “Đề án
phát triển NLSH đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”, trong đó đưa ra mục
tiêu đến năm 2010 sản xuất 100.000 tấn xăng E5/năm và 50.000 tấn B5/năm, bảo
đảm 0,4% nhu cầu nhiên liệu cả nước và đến năm 2025 sẽ có sản lượng hai loại
sản phẩm này đủ đáp ứng 5% nhu cầu thị trường nội địa. Tháng 6.2010, Quốc hội
cũng đã thông qua Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, trong đó đề cập
nhiều đến vấn đề sử dụng năng lượng tái tạo. Sự ra đời của đề án và đặc biệt việc
ban hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là căn cứ pháp luật quan
10
trọng để Việt Nam bước vào một hành trình mới về sản xuất và sử dụng nhiên liệu
sinh học.
Trên thực tế, nước ta có nhiều thuận lợi để phát triển NLSH. Lợi thế so sánh của
nước ta chính là cây sắn. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay cả 5 doanh nghiệp
ethanol của nước ta đều chọn cây sắn là nguyên liệu chính. Hiện nước ta đang
đứng thứ 2 trong khu vực về xuất khẩu sắn, mỗi năm khoảng 4 - 4,5 triệu tấn, năng
suất và sản lượng sắn đang tăng nhanh tương ứng 6% và 14,2% mỗi năm. Theo
các chuyên gia, trong khoảng 5- 10 năm nữa, chưa có cây nào có thể cạnh tranh
với sắn trong sản xuất NLSH. Ngoài sắn, chúng ta còn có mía đường với phụ
phẩm rất dồi dào, chất lượng cao, thích hợp cho sản xuất NLSH... Như vậy, tận
dụng những lợi thế sẵn có, nước ta hoàn toàn có thể góp tên vào bản đồ những
nước sản xuất và sử dụng NLSH.
Phát triển bền vững
Nguồn năng lượng hóa thạch đang cạn kiệt, giá các loại nguyên liệu hóa thạch
không ngừng tăng lên, điển hình là giá dầu thô trên thế giới. Vấn đề ô nhiễm môi
trường do nhiên liệu hóa thạch cũng đã ở mức báo động. Cùng với đó là nguy cơ
nước biển dâng và nhiệt độ trái đất nóng lên, đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận rõ
hơn về việc sử dụng năng lượng. Và không có cách nào khác ngoài tăng cường
phát triển các nguồn năng lượng khác, trong đó đặc biệt coi trọng NLSH.
Mặc dù vậy, trong quá trình sản xuất và sử dụng NLSH còn có những nghi ngại về
các nguy cơ có thể nảy sinh như vấn đề an ninh lương thực, ô nhiễm đất và cạn
kiệt tài nguyên nước khi trồng nguyên liệu phục vụ sản xuất NLSH. Hay việc mất
rừng, độc canh cây trồng và một số vấn đề KT- XH khác...
Không phủ nhận những nghi ngại đó nhưng bất cứ sự lựa chọn nào cũng có tính
11
hai mặt của nó. Vượt lên trên hết, NLSH vẫn mang những lợi ích khổng lồ, không
thể tranh cãi nhằm bảo đảm an ninh năng lượng của mỗi quốc gia, xoá đói, giảm
nghèo cho người dân và góp phần vào công cuộc giữ gìn, bảo vệ môi trường
chung trên thế giới.
Tình hình ở Việt Nam
Ở nước ta, giới khoa học đã quan tâm nghiên cứu nhiên liệu sinh học hơn một thập
kỷ qua như các cơ quan thuộc ngành GTVT, công nghiệp, năng lượng, Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam, các trường đại học… Về mặt kỹ thuật không có rào
cản lớn, nhưng để phát triển và sử dụng chúng ở quy mô công nghiệp cần phải có
chủ trương, chính sách và biện pháp mạnh mẽ của Chính phủ (vì đây là lĩnh vực
liên quan đến nhiều bộ/ngành).
Tháng 6.2004, Công ty Phát triển Phụ gia và Sản phẩm Dầu mỏ (APP) đã dự thảo
"Đề án phát triển nhiên liệu sinh học ở Việt Nam" (xăng/diesel pha cồn ethanol và
diesel sinh học) gửi Chính phủ và một số bộ/ngành. Dự án đề nghị thực hiện trong
2 giai đoạn: giai đoạn I (2006-2010) hoàn thiện công nghệ pha chế thử nghiệm và
xây dựng mô hình đầu tư thấp kết hợp sản xuất cồn khan với pha chế sử dụng sản
phẩm quy mô 100.000 m3 xăng pha cồn/năm thay thế một phần xăng khoáng
(thực hiện ở các đô thị đông dân cư như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội...), xây
dựng chính sách để phát triển vùng nguyên liệu sản xuất cồn sử dụng làm nhiên
liệu; giai đoạn II (2010-2020) với mục tiêu pha chế khoảng 2 triệu m3 nhiên liệu
thay thế đáp ứng khoảng 15% lượng xăng dầu thiếu hụt, xây dựng quy hoạch để
phát triển lớn hơn cho các năm tiếp theo. Bộ Công nghiệp cũng đang hoàn tất "Đề
án quốc gia về nhiên liệu sinh học" giai đoạn 2006-2020 để trình Chính phủ.
Để sớm triển khai đề án nhiên liệu sinh học, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến:
Bộ KH&CN, Bộ Công nghiệp cần thành lập Hội đồng gồm các nhà khoa học, nhà
kinh tế am hiểu về nhiên liệu sinh học đánh giá các kết quả nghiên cứu thử nghiệm
về xăng pha cồn ở trong nước và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài để kiến nghị
Chính phủ sớm có quyết định cho phép pha chế và sử dụng thử xăng pha 10% cồn
khan ở 1 thành phố (thí dụ thành phố Hồ Chí Minh), sau đó sẽ mở rộng ra một vài
thành phố có điều kiện. Trên cơ sở quyết định này, các doanh nghiệp có cơ sở
pháp lý để đầu tư sản xuất cồn khan, pha chế và sử dụng. Các bộ/ngành đồng thời
ban hành cơ chế ưu đãi vay vốn tín dụng, miễn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất
cồn dùng làm nhiên liệu, điều chỉnh thuế xuất khẩu cồn từ 0% lên 10%, ban hành
tiêu chuẩn nhiên liệu thay thế.
Bộ KH&CN cùng Bộ Công nghiệp chỉ đạo để xây dựng và thông qua "Dự án
KH&CN có quy mô lớn về nhiên liệu sinh học" cho thực hiện trong giai đoạn
2006-2010 để mở rộng các nghiên cứu và đầu tư sản xuất thử nghiệm một số dự án
về cồn khan, công nghệ sử dụng rây phân tử tách nước, diesel sinh học… Dự án
này có thể là dự án độc lập do Bộ Công nghiệp chủ trì hoặc là một bộ phận thuộc
Chương trình năng lượng quốc gia.
Chính phủ sớm thông qua "Đề án quốc gia nhiên liệu sinh học", làm cơ sở pháp lý
12
để tổ chức triển khai sử dụng nhiên liệu sinh học đến năm 2020. Phân công nhiệm
vụ cho các bộ/ngành lập quy mô vùng nguyên liệu, sản xuất, sử dụng và ban hành
chính sách, cơ chế khuyến khích đầu tư, sử dụng nhiên liệu sinh học; hỗ trợ phát
triển KH&CN và hợp tác quốc tế để rút ngắn con đường sử dụng nhiên liệu thay
thế ở nước ta.
Sớm ban hành Luật năng lượng, trong đó có năng lượng tái tạo, nhiên liệu sinh
học. Quy định khí thải xe cơ giới và tiến tới áp dụng tiêu chuẩn EU về khí thải
động cơ ở các đô thị đông dân cư. Thực hiện thuế môi trường đối với các phương
tiện giao thông và cơ sở gây ô nhiễm.
Nhiên liệu sinh học đã được sử dụng từ lâu ở nhiều quốc gia, nhưng với nước ta
lại là vấn đề mới và còn có rào cản nhất định. Chúng ta có thành công hay không
phụ thuộc chủ yếu vào chính sách, cơ chế và quyết tâm của Chính phủ và nhận
thức của cộng đồng về tính cấp thiết phải bảo vệ môi trường sống, để chấp nhận sử
dụng nhiên liệu sinh học là sự lựa chọn có tính khả thi trong chính sách năng
lượng quốc gia trong vài thập kỷ tới, giảm dần sự phụ thuộc vào xăng dầu nhập từ
nước ngoài. Sử dụng nhiên liệu sinh học sẽ đem đến những lợi ích tổng thể trong
chiến lược phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA NHIÊN LIỆU SINH HỌC:
Một nghiên cứu cho biết với 100 triệu hectare đất trồng các loại cây chế biến
nhiêu liệu sinh học sẽ đủ cung cấp nhiên liệu để thay thế lượng dầu mỏ tiêu
thụ hiện tại của toàn thế giới.
Bình chọn (0)
Ý kiến (0)
Chia sẻ
Bản in
13
Nhiên liệu sinh học đủ sức thay thế nhiêu liệu hóa thạch được dùng trên toàn thế
giới (nguồn ảnh: ABC)
Tóm lược
o Lo ngại về vấn đề an ninh lương thực khi tăng diện tích đất trồng cây
nhiên liệu sinh học sẽ sớm được giải tỏa.
Giáo sư Robert Henry thuộc Học viện Nghiên cứu Năng lượng, Đại học Southern
Cross tại Lismore cho rằng nhiên liệu sinh học có thể thay thế một phần đáng kể
nhiên liệu hóa thạch mà nước Úc đang tiêu thụ trong khi không cần phải sử dụng
quá nhiều diện tích đất nông nghiệp có giá trị. Phát hiện này của ông đã được công
bố trên tạp chí Plant Biotechnology số ra tháng 1/2010.
Giáo sư Henry, người vừa hoàn thành cuốn sách nhan đề ‘Nguồn thực vật làm
lương thực, nhiên liệu và bảo tồn’, cho biết chỉ với một diện tích đất nông nghiệp
tương đối nhỏ, sẽ có thể sản xuất đủ nhiên liệu sinh học thay thế cho dầu mỏ. Gần
đây,nhiều người quan ngại rằng việc trồng các loại cây sản xuất nhiên liệu sinh
học có thể chiếm mất phần diện tích đất được dùng trồng cây lương thực. Tuy
nhiên, theo giáo sư Robert Henry, phân tích của ông cho thấy thế giới có thể thay
thế lượng dầu mỏ đang được tiêu thụ bằng việc sản xuất nhiên liệu sinh học trên
100 triệu hectare diện tích đất nông nghiệp chính, tương đương với khoảng 1/7
diện tích đất của nước Úc.
Ông cho rằng thông tin này có thể khuyến khích nước Úc trồng các loại cây để sản
xuất nhiên liệu sinh học bởi sản lượng dầu mỏ đang suy giảm. Ông nói: “Trong
mười năm tới, nước Úc sẽ phải nhập k