Đề tài Tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến 2009

Sự xuất hiện hàng giả đã có từ lâu và luôn là mối quan tâm lo lắng của nhiều người, cả nhà sản xuất lẫn hàng chục triệu người tiêu dùng trên thế giới. Tuy trước đây nạn hàng giả chỉ mang tính thủ công nhất thời, nhưng nay nó đã trở nên một hiện tượng có tính chất toàn cầu. Hàng giả không những gây thiệt hại về tiền của, sức khỏe, thậm chí cả tính mạng của con người mà còn gây rối loạn trật tự kinh tế thị trường, giá cả, kìm hãm sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa. Hàng giả trực tiếp gây thiệt hại cho người tiêu dùng và làm điêu đứng các nhà sản xuất chân chính. Đối với Việt Nam chúng ta và riêng trên địa bàn thủ đô Hà Nội, hàng giả hơn bao giờ hết đang tràn lan khắp nơi, đủ các chủng loại từ hàng cao cấp đến hàng bình dân, len chân vào từ những quầy hàng quốc doanh lẫn tư nhân, thậm chí cả trong các khu thương mại sầm uất. Hầu như ngày nào các lực lượng Quản lý thị trường cũng phát hiện và xử lý các vụ việc về hàng gian, hàng giả trên thị trường. Có thể lấy ví dụ như việc thành phố Hà Nội đã từng phát hiện ngay tại Tràng Tiền Plaza bán túi sách hiệu L.V giá hàng triệu đồng một chiếc nhưng cũng là hàng giả xuất xứ từ Trung Quốc. Hoặc ngay ở một số xã ở ngoại thành Hà Nội cũng có tổ chức sản xuất bánh kẹo dán các nhãn hiệu Bảo Ngọc, Hải Hà, Kinh Đô và hàng may mặc giả các nhãn hiệu May 10, Thành Công, Nhà Bè, thậm chí là cả nhãn của Anh, Pháp, ý Tội sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn đang là một lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhà nước ta vào các thời kì khác nhau đã có những ghi nhận nhất định trong luật những quy định về hàng giả nhằm cấm đoán và xử lý các hành vi có liên quan tới vấn đề này nhưng việc áp dụng trong thực tiễn ra sao vẫn cần nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện hơn.

doc10 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3877 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến 2009, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC I.Tính cấp thiết của đề tài. II. Tình hình nghiên cứu. III. Đối tượng phạm vi nghiên cứu. IV. Phương pháp nghiên cứu. V. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. VI. Cơ cấu của đề tài.(Đề cương) 1. Thực trạng của tình hình tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009). a. Tội phạm rõ. b. Tội phạm ẩn. c. Chỉ số tội phạm. d. Thông số về thiệt hại. 2. Diễn biến của tình hình tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009). 3. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009). a. Cơ cấu. b. Tính chất. VII. Kết luận. I.Tính cấp thiết của đề tài. Sự xuất hiện hàng giả đã có từ lâu và luôn là mối quan tâm lo lắng của nhiều người, cả nhà sản xuất lẫn hàng chục triệu người tiêu dùng trên thế giới. Tuy trước đây nạn hàng giả chỉ mang tính thủ công nhất thời, nhưng nay nó đã trở nên một hiện tượng có tính chất toàn cầu. Hàng giả không những gây thiệt hại về tiền của, sức khỏe, thậm chí cả tính mạng của con người mà còn gây rối loạn trật tự kinh tế thị trường, giá cả, kìm hãm sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa. Hàng giả trực tiếp gây thiệt hại cho người tiêu dùng và làm điêu đứng các nhà sản xuất chân chính. Đối với Việt Nam chúng ta và riêng trên địa bàn thủ đô Hà Nội, hàng giả hơn bao giờ hết đang tràn lan khắp nơi, đủ các chủng loại từ hàng cao cấp đến hàng bình dân, len chân vào từ những quầy hàng quốc doanh lẫn tư nhân, thậm chí cả trong các khu thương mại sầm uất. Hầu như ngày nào các lực lượng Quản lý thị trường cũng phát hiện và xử lý các vụ việc về hàng gian, hàng giả trên thị trường. Có thể lấy ví dụ như việc thành phố Hà Nội đã từng phát hiện ngay tại Tràng Tiền Plaza bán túi sách hiệu L.V giá hàng triệu đồng một chiếc nhưng cũng là hàng giả xuất xứ từ Trung Quốc. Hoặc ngay ở một số xã ở ngoại thành Hà Nội cũng có tổ chức sản xuất bánh kẹo dán các nhãn hiệu Bảo Ngọc, Hải Hà, Kinh Đô… và hàng may mặc giả các nhãn hiệu May 10, Thành Công, Nhà Bè, thậm chí là cả nhãn của Anh, Pháp, ý… Tội sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn đang là một lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhà nước ta vào các thời kì khác nhau đã có những ghi nhận nhất định trong luật những quy định về hàng giả nhằm cấm đoán và xử lý các hành vi có liên quan tới vấn đề này nhưng việc áp dụng trong thực tiễn ra sao vẫn cần nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện hơn. II. Tình hình nghiên cứu. Trong thời gian vừa qua đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về tình hình tội phạm này. Chẳng hạn như: Trần Văn Độ (1999), “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2000, Số 6; Ngô Như Quỳnh, “Một số vấn đề về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng”, Tạp chí Luật học, Số 2/2001; Nguyễn Phan Khiêm (2000), “Hàng giả nỗi lo chưa giảm”, Tạp chí người bảo vệ công lý, 2000, Số 23; Lê Quang Bình (1999), “Nâng cao hiệu quả pháp luật trong đấu tranh chống hàng giả, buôn bán hàng giả ở Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 1999, Số 8; Đề tài “Tội phạm kinh tế trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường” , đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX – 04 – 14 do Bộ Công an chủ trì và các bài viết khác về tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả. Trước kia vấn đề này ít giành được quan tâm nghiên cứu. Trước và sau khi Pháp lệnh ngày 30/6/1982 của Hội đồng Nhà nước về trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, buôn bán hàng giả được ban hành, các tội sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả được nghiên cứu chung với một số tội phạm kinh tế như “Tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép” của tác giả Vũ Thiện Kim (Nhà xuất bản pháp lý 1983). Và sau khi BLHS được ban hành, trong các cuốn giáo trình luật hình sự, bình luận khoa học LHS, trong các tạp chí chuyên ngành, tội sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả cũng được nghiên cứu như là một chế định hình sự nhưng nhìn chung chưa được sâu và có hệ thống. Ngoài ra, trên thực tế cho đến nay có rất ít các bài viết, công trình nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ, tỉ mỉ và có hệ thống về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả. III. Đối tượng phạm vi nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu về hàng giả là một đề tài tương đối rộng, thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết một cách thấu đáo. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này em chỉ đề cập đến tội phạm về hàng giả dưới góc độ tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Hà Nội từ năm 2003 đến năm 2009. Do đó, việc nghiên cứu chủ yếu sẽ là những nội dung của tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Hà Nội từ năm 2003 đến 2009 bao gồm: Thực trạng, diễn biến và cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm này. Ngoài ra, do không có điều kiện phân tích hai tội sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả một cách độc lập, riêng rẽ nên số liệu hai tội này sẽ được tổng hợp chung (cùng được quy định trong BLHS). IV. Phương pháp nghiên cứu. Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu có thể kể đến như phương pháp luật học so sánh, phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, phương pháp điều tra xã hội học… trong đó phương pháp được dùng chủ yếu và đặc trưng nhất là phương pháp thống kê. V. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 1. Mục đích: Việc nghiên cứu tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả không chỉ giúp cho nhận diện “bức tranh” về tội phạm này được rõ nét, tìm ra được quy luật vận động của tội phạm mà còn giúp cho việc dự đoán (tuy chỉ là tương đối) xu hướng vận động của tội phạm trong thời gian tiếp theo, từ đó giúp cho việc xây dựng biện pháp phòng ngừa tội phạm của cơ quan chức năng sát với thực tiễn. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến năm 2009 nhằm làm rõ các nội dung bao gồm: thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm này, từ đó có những biện pháp khả thi đấu tranh phòng chống các tội phạm này trong giai đoạn hiện nay và tương lai, nhằm đẩy lùi tiến tới xóa bỏ hiện tượng này. VI. Cơ cấu của đề tài.(Đề cương) 1. Thực trạng của tình hình tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009). a. Tội phạm rõ. - Thống kê tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009) + Đưa ra được bảng thống kê và số liệu theo các nội dung sau đây: Bảng 1: Năm Số vụ án đã xét xử Số bị cáo Số vụ Tỷ lệ % Số người Tỷ lệ % Bảng 2: Năm Số vụ bị phát hiện Số vụ đã xét xử Tỷ lệ % + Nhận xét về các số liệu được đưa ra như xu hướng tăng giảm về số người và số vụ theo từng năm… + Nhận xét về tỷ lệ giữa số vụ bị phát hiện và số vụ đã xét xử để thấy được phần chìm cũng như mức độ nghiêm trọng của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả. - So sánh tội phạm sản xuất hàng giả (SXHG), tội phạm buôn bán hàng giả (BBHG) với tội phạm chung trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009) + Đưa ra được bảng thống kê và số liệu theo các nội dung sau: Năm Số vụ tội phạm Số người phạm tội TP chung Tội SXHG, BBHG Tỷ lệ % TP chung Tội SXHG, BBHG Tỷ lệ % + Nhận xét về số liệu được đưa ra như sự tăng giảm về số vụ và số người qua các năm, tỉ lệ giữa số vụ và số người về tội phạm sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả so với tội phạm chung trên địa bàn Hà Nội. + Đánh giá: Việc chỉ dựa vào các con số thống kê chưa thể phản ánh đầy đủ thực trạng của tội phạm. Bởi ngoài yếu tố này cần phải chú ý tới tình trạng vi phạm pháp luật trên thực tế xảy ra. Nó có thể được phản ánh bằng rất nhiều nguồn như: Các báo cáo tổng kết của các cơ quan chức năng khác có liên quan mà không phải là cơ quan pháp luật như cơ quan quản lý thị trường, thanh tra các bộ, ngành, hải quan, trên các phương tiện thông tin đại chúng; bằng chính các hiện tượng, vụ việc hằng ngày xảy ra trong đời sống xã hội mà vì những lý do này hoặc lý do khác không được phản ánh, ghi nhận bằng bất cứ hình thức nào. - So sánh tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả với các tội phạm kinh tế trên địa bàn Hà Nội (2003-2009) + Đưa ra được bảng thống kê và số liệu theo các nội dung sau: Năm Số vụ Số người TP kinh tế SXHG, BBHG Tỷ lệ % TP kinh tế SXHG, BBHG Tỷ lệ % + Nhận xét về số liệu được đưa ra như sự tăng giảm về số vụ và số người qua các năm, tỉ lệ giữa số vụ và số người về tội phạm sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả so với tội phạm kinh tế trên địa bàn Hà Nội. + Phân tích làm rõ được sự tồn tại ở mức nghiêm trọng các tội sản xuất hàng giả và buôn bán hàng giả trong tương quan với các tội phạm kinh tế khác và với tội phạm nói chung. b. Tội phạm ẩn. - Phân tích các con số thống kê của các cơ quan chức năng có liên quan mà không phải là cơ quan pháp luật như cơ quan quản lý thị trường, thanh tra các bộ, ngành, hải quan, trên các phương tiện thông tin đại chúng để thấy tội phạm ẩn của loại tội này là khá cao và ở mức độ nghiêm trọng. - Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn của loại tội này: + Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội phạm: Người tiêu dùng khi mua hoặc dùng phải hàng giả thường chỉ kêu ca, phàn nàn mà ít khi sử dụng những biện pháp pháp lý cần thiết như khiếu kiện, tố cáo với các cơ quan hữu trách để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. + Nguyên nhân từ phía người phạm tội: Người phạm tội thực hiện tội phạm bằng thủ đoạn quá tinh vi xảo quyệt như việc làm hàng giả một cách tinh vi khó phát hiện… + Nguyên nhân từ phía cơ quan chức năng: Thái độ thiếu tinh thần trách nhiệm, cán bộ có hành vi nhận hối lộ để không xử lí vụ việc hoặc do nể nang, quen biết nên bao che không xử lí vụ việc… c. Chỉ số tội phạm. - Chỉ số tội phạm được tính theo tỉ lệ số tội phạm (hoặc vụ phạm tội) trên 100.000 dân (hoặc 10.000 dân), được gắn liền với một địa bàn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định. - Như vậy ở đây ta sẽ phân tích 7 chỉ số tội phạm tương ứng với 7 năm (2003-2009) trên địa bàn thành phố Hà Nội đề làm rõ được mức độ phổ biến của tội phạm trong dân cư. d. Thông số về thiệt hại. - Thiệt hại có thể được tính bằng tiền, bằng tình trạng sức khỏe con người, bằng chi phí để chữa bệnh, bằng thiệt hại trong sản xuất… do tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả gây ra. - Thiệt hại gián tiếp của tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả được tính theo số liệu chi phí của Nhà nước và xã hội cho công tác đấu tranh với loại tội phạm này. 2. Diễn biến của tình hình tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009). Thống kê số vụ và số người phạm tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả trên địa bàn Hà Nội (2003-2009). - Đưa ra được bảng thống kê và số liệu theo các nội dung sau: Bảng 1: Năm Số vụ Tỷ lệ % Bảng 2: Năm Số người phạm tội Tỷ lệ % - Minh họa bằng đồ thị với mỗi bảng trên một đồ thị. - Từ các số liệu và đồ thị trên nhận xét về xu hướng tăng hay giảm hoặc ổn định tương đối của tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến năm 2009. - Dự đoán tương đối xu hướng vận động của loại tội này từ đó giúp cho việc xây dựng biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn sát với thực tiễn. 3. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả trên địa bàn thành phố Hà Nội (2003-2009). a. Cơ cấu. - Cơ cấu của tình hình tội phạm theo đặc điểm về nhân thân người bị kết án. + Đưa ra bảng thống kê ví dụ về cơ cấu thành phần người phạm tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả trên địa bàn Hà Nội (2003-2009): Năm Nghề nghiệp Đặc điểm khác Tổng số Nghề khác Cán bộ, công chức Nữ Tuổi từ 18-30 + Xây dựng biểu đồ thống kê minh họa cho bảng số liệu trên. + Đưa ra nhận xét từ những số liệu trên và biểu đồ minh họa. - Cơ cấu của tình hình tội phạm theo hình thức phạm tội. + Đưa ra bảng thống kê và số liệu theo các nội dung sau: Năm Số vụ đồng phạm Số vụ đơn lẻ + Xây dựng biểu đồ thống kê minh họa cho bảng số liệu trên. + Đưa ra nhận xét từ những số liệu trên và biểu đồ minh họa. (Ví dụ như số vụ đồng phạm chiếm tỉ lệ bao nhiêu %, số vụ đơn lẻ chiếm tỉ lệ bao nhiêu %...) b. Tính chất. - Giữa cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tính chất của tình hình tội phạm được làm sáng tỏ thông qua cơ cấu của nó. - Có nhiều cách để tiếp cận tính chất của tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả tuy nhiên ở đây em chỉ xin đề cập trên một khía cạnh của nó. - Khi nói đến tính chất của tình hình tội phạm này, chúng ta thấy rằng, tội sản xuất hàng giả, tội buôn bán hàng giả là một loại tội thường có tính tổ chức cao với số lượng đồng phạm và tái phạm nhiều. Nhận xét này được lý giải bởi các cơ sở sau: + Giữa người sản xuất và người kinh doanh buộc phải tổ chức thành một đường dây sản xuất và buôn bán hàng giả bởi sản xuất và buôn bán hàng giả là một việc làm phức tạp, nhiều công đoạn từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. + Muốn sản xuất và tiêu thụ hàng giả, người tổ chức phải có những cán bộ có kĩ thuật và tay nghề cao mà những cán bộ này chủ yếu là do Nhà nước quản lý. Do vậy, muốn có những cán bộ có kĩ thuật này người tổ chức sản xuất phải liên kết với họ nhằm tuồn rút những thông tin, bí quyết công nghệ để sản xuất hàng giả. Ngoài ra, để sản xuất và tiêu thụ hàng giả, người tổ chức sản xuất còn phải thuê một số lượng nhân công nhất định. Chính những điều này mà tội sản xuất, buôn bán hàng giả thường là tội phạm có tổ chức với số lượng đông phạm đông đảo. + Với chính sách mở cửa nền kinh tế, người sản xuất, buôn bán hàng giả đã lợi dụng liên kết với các công ty nước ngoài hoặc con đường nhập lậu tạo ra đường dây sản xuất, buôn bán hàng giả. Đây cũng là một lý do làm cho tội sản xuất, buôn bán hàng giả có đồng phạm ngày càng nhiều. VII. Kết luận. Tội sản xuất hàng giả và tội buôn bán hàng giả là một trong những tội phạm kinh tế có số vụ án xét xử và số bị cáo hàng năm chiếm tỷ lệ khá lớn. Điều đó cho thấy, thực trạng và tính chất của loại tội phạm này đang ở mức nguy hiểm đáng kể, không chỉ riêng trên địa bàn thủ đô Hà Nội mà còn trên phạm vi cả nước, do vậy cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa của Nhà nước và xã hội nhằm đẩy lùi tệ nạn này ra khỏi đời sống kinh tế, xã hội. _______________________________________________
Luận văn liên quan