Đề tài Tính minh bạch của chính sách tiền tệ và cơ chế truyền dẫn qua kênh lãi suất

Bài viết nghiên cứu mức độ truy ền dẫn và tốc độ điều chỉnh của lãi suất ngân hàng thương mại tức từ những thay đổi của lãi suất cơ bản ở New Zealand trong suốt thời k ỳ 1994-2004. Đồng thời ,bài viết cũng xem xét ảnh hưởng của tính minh bạch chính sách và cấu trúc tài chính trong cơ chế lan truy ền. New Zealand là quốc gia đầu tiên trong khối tổ chức OECD – (Organization for Economic Co -operation and Development - Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ) áp dụng chế độ lạm phát mục tiêu rõ ràng với những điều khoản có trách nhiệm pháp lý và có tính minh bạch cao. Tính minh bạch chính sách tiền tệ đã được nâng cao bởi sự chuy ển đổi từ chiến lược tăng trưởng kinh tế (đề cao cơ chế thanh toán bù trừ) sang mục tiêu bình ổn giá cả (áp dụng mức lãi suất đáp ứng mục tiêu lãi suất - OCR) vào năm 1999. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự truyền dẫn dài hạn hoàn toàn cho tất cả các loại lãi suất ngân hàng . Và bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mức lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu - OCR đã làm gia tăng mức độ truyền dẫn lên lãi suất tiền gửi, lãi suất vay thế chấp có điều chỉnh ngoại trừ lãi suất vay th ế chấp cố định. Nói chung, kết quả nghiên cứu khẳng định mức lãi suất theo chính sách tiền tệ qui định có ảnh hưởng nhiều hơn đối với lãi suất ngắn hạn và chính sự gia tăng tính minh bạch của chính sách tiền tệ đã làm giảm sự biến động tài chính và tăng hiệu quả điều hành của chính sách.

pdf28 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2321 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính minh bạch của chính sách tiền tệ và cơ chế truyền dẫn qua kênh lãi suất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài Chính Quốc Tế ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH Nhóm 4 - TCDN Ngày 1 - K20 Tìm hiểu bài viết khoa học : TÍNH MINH BẠCH CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN QUA KÊNH LÃI SUẤT Tác giả: Ming-Hua Liu, Dimitri Margaritis và Alireza Tourani-Rad GVHD: Ts. Nguyễn Khắc Quốc Bảo Nhóm báo cáo: Nhóm 4 – Lớp Tài Chính Doanh Nghiệp Ngày 1 – K20 1. Hoàng Trần Trâm Anh 2. Trương Thị Quỳnh Anh 3. Nguyễn Phạm Thùy Dương 4. Nguyễn Thị Thu Hằng 5. Phạm Minh Hiền (Nhóm trưởng) 6. Lê Thị Thanh Huyền 7. Mai Thị Thanh Nga 8. Phan Vũ Phong 9. Dư Thị Thanh Sang 10. Nguyễn Thị Hạnh Thục 11. Bùi Thị Thanh Thúy 12. Lê Huy Thư 13. Trần Bảo Trung 14. Lê Kim Uyên CẤU TRÚC BÀI BÁO CÁO Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 1/28 CẤU TRÚC BÀI BÁO CÁO: PHẦN 1: DẪN NHẬP & GIỚI THIỆU ......................................................................................1 1.1 Dẫn nhập ...............................................................................................................................1 1.2 Giới thiệu: .............................................................................................................................1 1.2.1 Cơ sở hình thành : ..............................................................................................................1 1.2.2 Nội dung nghiên cứu: .........................................................................................................2 1.2.3 Ý nghĩa của nghiên cứu: .....................................................................................................3 1.2.4 Kết quả nghiên cứu:............................................................................................................4 1.2.5 Bố cục bài nghiên cứu: .......................................................................................................4 PHẦN 2: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NEW ZEALAND .......................................................1 PHẦN 3: TÍNH CỨNG NHẮC TRONG CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT ............................1 PHẦN 4: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................4 4. 1 Mô hình định lượng trong dài hạn: .......................................................................................4 4.1.1 Phương pháp kiểm định đồng liên kết .................................................................................4 4.1.2 Mô hình ước lượng Phillips – Lorenta: ...............................................................................4 4. 2 Mô hình định lượng trong ngắn hạn: .....................................................................................5 4.2.1 Mô hình hiệu chỉnh sai số cấu trúc (SEC – Structural Error Correction) ..............................5 PHẦN 5: DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU & KẾT QUẢ ......................................................................7 5.1 Dữ liệu nghiên cứu & kết quả thống kê mô tả ........................................................................7 5.1.1 Dữ liệu nghiên cứu: ............................................................................................................7 5.1.2 Thống kê mô tả: .................................................................................................................7 PHẦN 6: KẾT LUẬN ............................................................................................................... 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................................... 19 Phần 1: Dẫn nhập & giới thiệu Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 1/28 PHẦN 1: DẪN NHẬP & GIỚI THIỆU 1.1 Dẫn nhập Bài viết nghiên cứu mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh của lãi suất ngân hàng thương mại tức từ những thay đổi của lãi suất cơ bản ở New Zealand trong suốt thời kỳ 1994-2004. Đồng thời ,bài viết cũng xem xét ảnh hưởng của tính minh bạch chính sách và cấu trúc tài chính trong cơ chế lan truyền. New Zealand là quốc gia đầu tiên trong khối tổ chức OECD – (Organization for Economic Co-operation and Development - Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ) áp dụng chế độ lạm phát mục tiêu rõ ràng với những điều khoản có trách nhiệm pháp lý và có tính minh bạch cao. Tính minh bạch chính sách tiền tệ đã được nâng cao bởi sự chuyển đổi từ chiến lược tăng trưởng kinh tế (đề cao cơ chế thanh toán bù trừ) sang mục tiêu bình ổn giá cả (áp dụng mức lãi suất đáp ứng mục tiêu lãi suất - OCR) vào năm 1999. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự truyền dẫn dài hạn hoàn toàn cho tất cả các loại lãi suất ngân hàng . Và bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mức lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu - OCR đã làm gia tăng mức độ truyền dẫn lên lãi suất tiền gửi, lãi suất vay thế chấp có điều chỉnh ngoại trừ lãi suất vay thế chấp cố định. Nói chung, kết quả nghiên cứu khẳng định mức lãi suất theo chính sách tiền tệ qui định có ảnh hưởng nhiều hơn đối với lãi suất ngắn hạn và chính sự gia tăng tính minh bạch của chính sách tiền tệ đã làm giảm sự biến động tài chính và tăng hiệu quả điều hành của chính sách. 1.2 Giới thiệu: 1.2.1 Cơ sở hình thành :  Đặt vấn đề: Chính sách tiền tệ là công cụ cơ bản điều hành kinh tế vĩ mô trong hầu hết tất cả các quốc gia công nghiệp. Khi chính sách tiền tệ cần được thắt chặt (hoặc lới lỏng), Ngân hàng trung ương hoặc cơ quan tiền tệ có thẩm quyền sẽ tăng (hoặc giảm) lãi suất cơ bản(lãi suất được NHTW qui định),các ngân hàng và các định chế tài chính khác sẽ phản ứng tương tự bằng cách tăng (giảm) lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Đối mặt với chi phí tài chính cao hơn (thấp hơn), người tiêu dùng và các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh tiêu dùng và chi tiêu, vì vậy sẽ ảnh hưởng đến sản lượng và lạm phát. Do đó, hiệu quả của Phần 1: Dẫn nhập & giới thiệu Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 2/28 chính sách tiền tệ phụ thuộc vào mức độ truyền dẫn của việc thay đổi lãi suất cơ bản đến đến những thay đổi trong lãi suất thị trường của các định chế tài chính. Hiện nay, mặc dù có nhiều nghiên cứu về cơ chế lan truyền của chính sách tiền tệ, nhưng sự truyền dẫn qua kênh lãi suất lại ít được tìm hiểu nhất.  Tổng quan về các nghiên cứu trước đây: Nghiên cứu của Bernanke và Gertler, 1995; Kashyap và Stein, 2000; Altunbas et al, 2002: giả định mức truyền dẫn hoàn toàn và ngay lập tức khi sự thay đổi lãi suất cơ bản đến lãi suất ngân hàng . Nghiên cứu của Chong et al, 2005; Kleimeier và Sander,2005: chỉ ra rằng tốc độ điều chỉnh sẽ khác nhau phụ thuộc vào lãi suất đang cao hơn hay thấp hơn so với lãi suất cân bằng dài hạn Một số cuộc nghiên cứu gần đây cho rằng truyền dẫn này có thể không hoàn toàn và tốc độ điều chỉnh có thể diễn ra chậm chạp. Sự truyền dẫn và mức độ điều chỉnh sẽ khác nhau tùy thuộc vào các định chế tài chính và các sản phẩm tài chính khác nhau. 1.2.2 Nội dung nghiên cứu: Trong bài viết này, nội dung chính là nghiên cứu mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh lãi suất ngân hàng thương mại khi có sự thay đổi lãi suất cơ bản (lãi suất được NHTW qui định), ở quốc gia New Zealand. Đặc biệt, tài liệu phân tích ba vấn đề sau: Thứ nhất, áp dụng mô hình hồi qui Phillips-Loretan (1991) để xem xét tác động dài hạn của lãi suất cơ bản và lãi suất liên ngân hàng lên lãi suất ngân hàng thương mại. Thứ hai, sử dụng mô hình sai số cấu trúc, và phương pháp kiểm định tốc độ điều chỉnh bất đối xứng để kiểm tra mức truyền dẫn trong ngắn hạn và tốc độ điều chỉnh của lãi suất ngân hàng. Cuối cùng, kiểm tra xem việc áp dụng công cụ OCR (mức lãi suất theo lạm phát mục tiêu ) vào tháng 3/1999 và tăng tính minh bạch trong chính sách tiền tệ đã có ảnh hưởng như thế nào đến mức độ truyền dẫn và tốc độ điều chỉnh của lãi suất ngân hàng tại New Zealand. Phần 1: Dẫn nhập & giới thiệu Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 3/28 1.2.3 Ý nghĩa của nghiên cứu: Có ít nhất 3 lý do lý giải thích tầm quan trọng của việc nghiên cứu cơ chế truyền dẫn tại New Zealand. Trước tiên, New Zealand là quốc gia đầu tiên áp dụng chế độ lạm phát mục tiêu rõ ràng với những điều khoản có trách nhiệm pháp lý và có tính minh bạch cao. Chế độ này đã trở thành mô hình mẫu cho các khuôn khổ chính sách được áp dụng tại các nước khác trong khối OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - Organization for Economic Cooperation and Development), và gần đây ở nhiều các quốc gia phát triền. Thứ hai, không như các quốc gia khác, New Zealand đã có một chuyển dịch trong cơ chế điều hành chính sách tiền tệ cụ thể là từ bỏ thanh toán bù trừ tiền mặt và áp dụng mức lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu (OCR). Mặc dù với cơ chế nào thì mức độ truyền dẫn của chính sách tiền tệ sẽ được điều hành qua kênh lãi suất, câu hỏi đặt ra là sự thay đổi & tốc độ điều chỉnh của các công cụ thuộc chính sách tiền tệ sẽ ảnh hưởng lên lãi suất ngân hàng & tính hiệu quả của chính sách tiền tệ ở mức độ nào. Thứ ba, quốc gia New zealand là một trong những quốc gia trong khối OECD nợ nần nhiều nhất và có lãi suất tiết kiệm khu vực tư nhân âm. Khối ngân hàng, hầu hết các ngân hàng nước ngoài ngày càng phụ thuộc vào nợ nước ngoài. Do đó việc thấy sự mất hiệu quả hoạt động của chính sách tiền tệ khi có một sự rò rỉ trong hệ thống là rất cần thiết..Theo thông kê chính thức từ Ngân hàng trung ương New Zealand , vào tháng 03/2005, nợ nước ngoài khu vực tư nhân là 149 tỷ đôla New Zealand , bằng 101% GDP cả nước và gấp 8.8 lần nợ nước ngoài của chính phủ (NZ$ 17 tỷ , 12% GDP). Trong khi lãi suất tiết kiệm khu khu vực doanh nghiệp tăng do lơi nhuận cao hơn, lãi suất tiết kiệm khu vực hộ tư nhân giảm đều đặn. Lãi suất tiết kiệm khu vưc hộ tư nhân New Zealand có mức thấp nhất trong khối OECD. Theo thống kê New Zealand, các hộ tư nhân thường không tiết kiệm từ khoản thu nhập nhưng thay vào đó là vay nợ khoảng 12% mức thu nhập hàng năm. Vay nợ bất động sản có thế chấp chiếm khoản 90% trong tổng nợ khu vực hộ gia đình. Khoản vay khu vực này chiếm trên 50% trong tổng danh mục các khoản vay tại các định chế tài chính New Zealand. Do khan hiếm nguồn tiết kiệm trong nước, các ngân hàng New Zealand đã ngày càng vay nợ từ các nguồn tài chính lớn ở thị trường Phần 1: Dẫn nhập & giới thiệu Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 4/28 nước ngoài để đáp ứng được nhu cầu vay thế chấp .Và điều này đã ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa OCR và lãi suất vay cố định có thế chấp. 1.2.4 Kết quả nghiên cứu: Mức độ truyền dẫn trong dài hạn của lãi suất thị trường lên lãi suất ngân hàng khác nhau tùy theo các sản phẩm tài chính khác nhau. Một số loại lãi suất có mức truyền dẫn hoàn toàn; một số khác thì không Mức độ truyền dẫn trong ngắn hạn & tốc độ điều chỉnh khác nhau giữa các sản phẩm tài chính khác nhau. Nghiên cứu không đưa ra được chứng cứ nào cho thấy các ngân hàng tại New Zealand đã điều chỉnh lãi suất (vay và tiết kiệm) tăng chậm hơn là điều chỉnh lãi suất hạ xuống. Việc áp dụng mức lãi suất OCR đã làm tăng mức độ truyền dẫn trong dài hạn của lãi suất vay thế chấp có điều chỉnh & lãi suất huy động cố định. 1.2.5 Bố cục bài nghiên cứu: Bố cục bài nghiên cứu gồm phần sau đây:  Phần 2: tổng quan về chính sách tiền tệ của New Zealand  Phần 3: giới thiệu cơ sở lý thuyết cùng các nghiên cứu liên quan  Phần 4: trình bày phương pháp nghiên cứu  Phần 5: mô tả dữ liệu nghiên cứu và kết quả thực nghiệm  Phần 6: kết luận Phần 2: Chính sách tiền tệ của New Zealand Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 1/28 PHẦN 2: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NEW ZEALAND New Zealand là nước đầu tiên trong số các nước phát triển áp dụng khuôn khổ chính sách tiền tệ đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát. New Zealand đã bắt đầu áp dụng chính sách này từ năm 1989 bằng cách trao cho Ngân hàng dự trữ New Zealand quyền độc lập thực thi chính sách tiền tệ để đạt được sự ổn định về giá, tức là đạt được mức lạm phát đo bằng mức tăng của CPI hàng năm theo thỏa thuận với Chính phủ. - Đầu tiên Ngân hàng dữ dữ New Zealand đã sử dụng tỷ giá hối đoái như mục tiêu trung gian để đạt được mức lạm phát mục tiêu. Vì giá cả thế giới sẽ tác động đến mức giá trong nước thông qua tỷ giá hối đoái. Tháng 7 năm 1997 đến tháng 3 năm 1999, Ngân hàng dự trữ New Zealand (RBNZ) sử dụng chỉ số trạng thái của chính sách tiền tệ (MCI). MCI là chỉ số kết hợp các biến số lãi suất và tỷ giá hối đoái thành một con số duy nhất. Mục đích của MCI là cung cấp những thông tin tổng quát và dễhiểu về thị trường tài chính vào một thời điểm xác định.. Tuy nhiên công cụ này tỏ ra không hiệu quả trong giai đoạn những năm cuối thập niên 1990 , buộc Ngân hàng dự trữ New Zealand phải điều chỉnh khung lạm phát mục tiêu từ 0-2% lên 0- 3% nhưng lạm phát vẫn liên tục vượt ngưỡng 3%. Cuộc khủng khoảng tài chính vào cuối năm 1997 làm cho MCI giảm đáng kể, Ngân hàng Dự trữ New Zealand phản ứng bằng điều chỉnh tăng lãi suất. Tuy nhiên, sự giảm giá này là do cú sốc thương mại âm, nên thắt chặt chính sách tiền tệ đã làm cho cuộc suy thoái trở nên trầm trọng hơn, lạm phát tăng cao. Cuối cùng, Ngân hàng Dự trữ New Zealand nhận thấy sai lầm và đảo ngược tiến trình bằng việc giảm nhanh lãi suất vào tháng 7/1998 sau khi nền kinh tế đã rơi vào suy thoái, thế nhưng quá muộn. Ngân hàng Dự trữ New Zealand nhận thấy sự bất hợp lý khi sử dụng MCI như là chi số của chính sách tiền tệ và đã từ bỏ vào năm 1999 - Từ Tháng 3/1999, New Zealand đã từ bỏ MCI và áp dụng mức lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu OCR , cụ thể là sử dụng lãi suất qua đêm như một công cụ của chính sách tiền tệ; & ít bị ảnh hưởng hơn so với việc sử dụng công cụ tỷ giá - Điều hành chính sách tiền tệ bằng OCR. Ngân hàng dự trữ New Zealand điều hành chính sách tiền tệ trên cơ sở điều tiết lãi suất thay cho điều tiết khối lượng tiền mặt. Trong 1 năm, OCR được Ngân hàng New Zealand xem xét và điều chỉnh 8 lần. Với hệ thống OCR ngân hàng dữ trữ New Zealand là nhà tạo lập thị trường sẽ cho các định chế tài chính, ngân hàng thương mại vay qua đêm với mức lãi suất cao hơn 0,25% OCR, và vay lại của các định chế tài chính với mức thấp hơn 0,25% OCR. Quan trọng hơn tổng số tiền vay hay cho vay từ ngân hàng dự Phần 2: Chính sách tiền tệ của New Zealand Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 2/28 trữ là không giới hạn. Bằng cách cho vay hoặc vay tiền qua đêm với số lượng không giới hạn, Ngân hàng dự trữ có thể để duy trì ngắn hạn tỷ lệ lãi suất liên ngân hàng theo mức OCR. Bằng cách thiết lập các lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu (OCR), Ngân hàng dự trữ có thể ảnh hưởng đáng kể đến các loại lãi suất ngắn hạn, ví dụ như lãi suất hối phiếu 90 ngày, .. Lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu (OCR) còn có thể ảnh hưởng đến lãi suất bán lẻ khác của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính. Kết quả là, những thay đổi trong lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu (OCR) sẽ ảnh hưởng đến tổng thể của hoạt động kinh tế trong quốc gia và lạm phát . Tuy nhiên, quá trình này cần có thời gian và tốc độ điều chỉnh thay đổi giữa các sản phẩm và qua thời gian Phần 3: Tính cứng nhắc trong cơ chế điều chỉnh lãi suất Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 1/28 PHẦN 3: TÍNH CỨNG NHẮC TRONG CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT Có một sự truyền dẫn lãi suất từ lãi suất cơ bản đến các loại lãi suất thị trường, tuy nhiên sự truyền dẫn lãi suất này có thể không hoàn toàn do có các yếu tố gây nên sự cứng nhắc( khó thay đổi) trong quá trình điều chỉnh lãi suất.Các yếu tố đó là: - Chi phí thực đơn - Dutta et al, năm 1999. Theo giả thuyết chi phí thực đơn, các ngân hàng không muốn thay đổi lãi suất của họ nếu những thay đổi của lãi suất cơ bản là rất nhỏ hoặc chỉ là tạm thời. Vì có các chi phí điều chỉnh liên quan đến việc thay đổi lãi suất cho khách hàng như chi phí in ấn, phân phối lại bảng giá, tờ rơi,.. …Do đó ngân hàng có thể phản ứng chậm chạp trước những thay đổi tạm thời trong chính sách tiền tệ nhưng sẽ thay đổi nhanh chóng trước những thay đổi vĩnh viễn trong chính sách lãi suất. - Chi phí chuyển đổi - Heffernan, 1997. Theo giả thuyết chi phí chuyển đổi, khách hàng không thích chuyển đổi các sản phẩm tài chính, các thể chế trong việc tìm kiếm tài trợ hoặc các khoản đầu tư có chi phí chuyển đổi cao Khách hàng phải mất nhiều thời gian và công sức để tìm ra ngân hàng cung cấp các sản phẩm tốt nhất và nhận ra rằng nó quá bất tiện hoặc quá tốn kém để chuyển đổi ngân hàng. Ví dụ, trong trường hợp thanh toán trước các khoản cho vay và thu hồi sớm tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng, một số ngân hàng có thể tính môt khoản phí khi các khách hàng thực các quyền chọn này. Sự cứng nhắc trong lãi suất có thể do tâm lý của khách hàng trong chuyển đổi sản phẩm tài chính. Nếu ngân hàng có thể định giá sản phẩm của họ để khai thác tâm lý của khách hàng thì ngân hàng có thể điều chỉnh tăng lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay chậm hơn. Điều này sẽ dẫn đến sự bất cân xứng trong tốc độ điều chỉnh lãi suất. - Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo - Hannan and Berger 1991, Neuman and Sharp 1992. Theo giả thuyết thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, bởi vì có sự thống nhất giữa các ngân hàng nên việc điều chỉnh lãi suất ở các thị trường không cạnh tranh có thể bất cân xứng, nghĩa là có sự cứng nhắc trong tăng lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay - Thông tin bất cân xứng - Stiglitz and Weis 1981. Cuối cùng, theo giả thuyết thông tin bất cân xứng, các ngân hàng phải đối mặt với hai lựa chọn trái ngược nhau và các vấn đề rủi ro đạo đức khi họ được yêu cầu nâng cao lãi suất cho vay để tăng lãi suất thị trường. Sự hiện diện của chi phí cơ hội làm cho nhiều ngân hàng muốn tăng lãi suất cho vay đáng kể trong một thời gian ngắn. Lãi suất cho vay cao hơn Phần 3: Tính cứng nhắc trong cơ chế điều chỉnh lãi suất Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20 Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 2/28 làm cho việc thanh toán các khoản nợ trở nên khó khăn hơn cho các khách hàng vay dẫn đến các khoản vay quá hạn và trở thành nợ xấu. Trừ khi lãi suất của họ đang dưới mức qui định và lãi suất thị trường dự kiến sẽ được duy trì ở mức cao, các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay. Thay vào đó các ngân hàng sẽ hạn chế số lượng tín dụng mở rộng cho khách hàng vay khi có sự gia tăng áp lực lên lãi suất cho vay. Kết quả là lãi suất cho vay dự kiến sẽ trở nên cứng nhắc theo mô hình thông tin bất cân xứng. Một sự kết hợp của các yếu tố trên có thể đóng vai trò khác nhau trong cơ cấu điều chỉnh lãi suất ngắn hạn và dài hạn. Chi phí chuyển đổi và chi phí thực đơn là yếu tố chính ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh trong ngắn hạn trong khi thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và thông tin bất cân xứng là yếu tố chính ảnh hưởng đến các tác động trong dài hạn. (xem Bondt 2002). Chính vì vậy, lãi suất huy động và lãi suất cho vay cứng nhắc hay linh hoạt trở thành một câu hỏi theo lối kinh nghiệm. Hơn nữa, nó cũng giải thích cho sự khác nhau về lãi suất giữa các sản phẩm tài chính. Ví dụ như sự khác nhau giữa lãi suất cho vay so với lãi suất tiền gửi, lãi suất cố định có thế chấp và không thế chấp, lãi suất ngắn hạn so với dài hạn, tùy thuộc tương đối vào tâm lý khách hàng và tầm quan trọng của chi phí chuyển đổi. Tâm lý của khách hàng có thể là việc ưa thích tiền gửi tiết kiệm hơn là tiền gửi không kỳ hạn. Hannan and Berger (1991) và Nueman and Sharp (1992) là người đầu tiên nghiên cứu tính cứng nhắc c
Luận văn liên quan