Ngày nay, khi các dân tộc, các quốc gia ở Đông Nam Á đã vượt qua thời kì đối
đầu đểbước vào thời đại mới, thời đại chung sống hòa bình, hữu nghịvà hợp tác. Khi
mà những cuộc tiếp xúc và giao lưu ngày càng diễn ra mạnh mẽ, thì mỗi chúng ta, ai
cũng dễdàng nhận thấy trong vốn kiến thức của người Việt và các dân tộc Đông Nam Á
khác thiếu hẳn sựhiểu biết vềkhu vực, vềnhững người bạn láng giềng của mình.
Trong khi đó, các quốc gia dân tộc đều sinh ra và lớn lên trong khu vực Đông
Nam Á, có chung một cội nguồn văn hóa - tộc người, có chung một tiến trình lịch sử,
ngày nay đang cùng nhau xây dựng một ASEAN hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển trong xu thếkhu vực hóa và toàn cầu hóa. Tất cảmọi hoạt động giao lưu văn hóa
hiện nay đều nhằm mục đích tăng cường sựhiểu biết, giới thiệu vềnền văn hóa của
nhau không chỉ ởkhu vực mà ra cảthếgiới bên ngoài, đểthúc đẩy tình hữu nghị, đoàn
kết, và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu, học tập các giá trị
văn hóa của nước bạn.
Đông Nam Á xưa kia được biết đến như“là một khu vực thần bí, nơi sản xuất
hương liệu, gia vịvà những sản phẩm kỳlạkhác” (Donald G. Mc. Cloud, 1986) và cho
đến tận cuối thếkỷXIX, Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủnhư
một khu vực địa lý - lịch sử- văn hóa - chính trịriêng biệt. Cách nhận thức mới vềtính
khu vực của Đông Nam Á thực sựxuất hiện từchiến tranh thếgiới thứhai, khi thực dân
Anh lập ra Bộchỉhuy quân sự Đông Nam Á, đểphân biệt với Đông Á và Nam Á. Tuy
nhiên, Đông Nam Á không phải chỉlà một khu vực chính trịthuần túy mà từxa xưa,
Đông Nam Á đã là một khu vực văn hóa thống nhất - điều này đã được nhiều học giả,
kểcảcác học giảÂu, Mĩ, khẳng định. Người ta đã khẳng định được rằng trước khi tiếp
xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, cưdân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản
địa phát triển, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với nền văn hóa Đông Sơn mà
biểu tượng rực rỡnhất là chiếc trống đồng, được tìm thấy khắp ởcác nước Đông Nam
Á. Nhưvậy, có thểnói, Đông Nam Á đã là một khu vực lịch sử- văn hóa trước khi trở
thành khu vực địa lý - chính trị.
Ngày nay, văn hóa Đông Nam Á, vừa là sựkếthừa và phát huy vốn văn hóa bản
địa truyền thống, vừa là sựtiếp thu có chọn lọc những yếu tốmới từbên ngoài, cả
phương Đông lẫn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồsộ Đông Nam Á có rất nhiều
yếu tốchung, làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á, song, cũng có không ít những
yếu tố đặc sắc, riêng biệt độc đáo tiêu biểu cho mỗi quốc gia, dân tộc. Hay nói cách
khác, văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”, theo cách nói
của người Inđônêxia. Cụm từnày bắt nguồn từcâu nói của nhà thơMpu Tantular ở
Inđônêxia “Bhineka Tungga Ika” (nghĩa là “thống nhất trong đa dạng”), và ngày nay,
câu nói này đã trởthành thuật ngữphổbiến khi nói vềvăn hóa Đông Nam Á.
Có lẽ, trên thếgiới, hiếm có khu vực nào vừa mang tính đa dạng mà cũng vừa
mang tính thống nhất như ởkhu vực Đông Nam Á. Sự đa dạng và thống nhất ấy được
biểu hiện trên nhiều mặt, từcơsởnền tảng tạo thành cho đến đời sống sinh hoạt vật chất
lẫn tinh thần của cưdân Đông Nam Á.
156 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 20196 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN LỊCH SỬ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG” CỦA
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG ĐÔNG NAM Á
Chủ tịch Hội đồng Ban Chủ nhiệm Khoa Chủ nhiệm đề tài
Võ Văn Thắng Trần Thể Lê Thị Liên
Chủ nhiệm đề tài: Ths. LÊ THỊ LIÊN
Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Lời cám ơn
Lời nói đầu
Phần tóm tắt
Danh sách các biểu bảng, hình ảnh minh họa
Viết tắt
MỞ ĐẦU 1
I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 1
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
III. Phương pháp nghiên cứu 3
IV. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
NỘI DUNG 5
Chương I
NHỮNG YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
5
I. Điều kiện tự nhiên Đông Nam Á 5
II. Dân tộc và ngôn ngữ Đông Nam Á 8
III. Nền kinh tế truyền thống Đông Nam Á 12
IV. Tiến trình lịch sử các quốc gia Đông Nam Á 14
Chương II
TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
VỀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á
21
I. Thức ăn 21
II. Trang phục 24
III. Nhà ở 28
IV. Kiến trúc và điêu khắc 31
Chương III
TÍNH “THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG”
VỀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐÔNG NAM Á
40
I. Chữ viết 40
II. Tín ngưỡng bản địa - tôn giáo 42
III. Lễ hội và phong tục tập quán 51
IV. Nghệ thuật diễn xướng 63
KẾT LUẬN 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
PHỤ LỤC 74
LỜI CÁM ƠN
" "
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến:
Viện nghiên cứu Đông Nam Á
Thư viện Quốc Gia
Thư viện Quân đội
Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phòng Tư liệu - Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ban Giám Hiệu, phòng Quản lí Khoa học và Hợp tác Quốc tế, Thư viện và Hội
đồng Khoa học Trường Đại học An Giang.
Xin chân thành gửi lời cám ơn đến quý Thầy Cô, quý đồng nghiệp trường Đại học
An Giang, đặc biệt xin chân thành cám ơn PGS.TS. Ngô Văn Doanh - Viện nghiên cứu
Đông Nam Á, đã động viên và hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài này trong thời gian vừa
qua.
Do điều kiện thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế, cho nên, đề tài của tôi không
thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý
Thầy Cô và quý đồng nghiệp, để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Long Xuyên, tháng 6 năm 2010
Chủ nhiệm đề tài
Lê Thị Liên
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, khi các dân tộc, các quốc gia ở Đông Nam Á đã vượt qua thời kì đối
đầu để bước vào thời đại mới, thời đại chung sống hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Khi
mà những cuộc tiếp xúc và giao lưu ngày càng diễn ra mạnh mẽ, thì mỗi chúng ta, ai
cũng dễ dàng nhận thấy trong vốn kiến thức của người Việt và các dân tộc Đông Nam Á
khác thiếu hẳn sự hiểu biết về khu vực, về những người bạn láng giềng của mình.
Trong khi đó, các quốc gia dân tộc đều sinh ra và lớn lên trong khu vực Đông
Nam Á, có chung một cội nguồn văn hóa - tộc người, có chung một tiến trình lịch sử,
ngày nay đang cùng nhau xây dựng một ASEAN hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa. Tất cả mọi hoạt động giao lưu văn hóa
hiện nay đều nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết, giới thiệu về nền văn hóa của
nhau không chỉ ở khu vực mà ra cả thế giới bên ngoài, để thúc đẩy tình hữu nghị, đoàn
kết, và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời tiếp thu, học tập các giá trị
văn hóa của nước bạn.
Đông Nam Á xưa kia được biết đến như “là một khu vực thần bí, nơi sản xuất
hương liệu, gia vị và những sản phẩm kỳ lạ khác” (Donald G. Mc. Cloud, 1986) và cho
đến tận cuối thế kỷ XIX, Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như
một khu vực địa lý - lịch sử - văn hóa - chính trị riêng biệt. Cách nhận thức mới về tính
khu vực của Đông Nam Á thực sự xuất hiện từ chiến tranh thế giới thứ hai, khi thực dân
Anh lập ra Bộ chỉ huy quân sự Đông Nam Á, để phân biệt với Đông Á và Nam Á. Tuy
nhiên, Đông Nam Á không phải chỉ là một khu vực chính trị thuần túy mà từ xa xưa,
Đông Nam Á đã là một khu vực văn hóa thống nhất - điều này đã được nhiều học giả,
kể cả các học giả Âu, Mĩ, khẳng định. Người ta đã khẳng định được rằng trước khi tiếp
xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ, cư dân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa bản
địa phát triển, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, với nền văn hóa Đông Sơn mà
biểu tượng rực rỡ nhất là chiếc trống đồng, được tìm thấy khắp ở các nước Đông Nam
Á. Như vậy, có thể nói, Đông Nam Á đã là một khu vực lịch sử - văn hóa trước khi trở
thành khu vực địa lý - chính trị.
Ngày nay, văn hóa Đông Nam Á, vừa là sự kế thừa và phát huy vốn văn hóa bản
địa truyền thống, vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố mới từ bên ngoài, cả
phương Đông lẫn phương Tây. Trong kho tàng văn hóa đồ sộ Đông Nam Á có rất nhiều
yếu tố chung, làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á, song, cũng có không ít những
yếu tố đặc sắc, riêng biệt độc đáo tiêu biểu cho mỗi quốc gia, dân tộc. Hay nói cách
khác, văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”, theo cách nói
của người Inđônêxia. Cụm từ này bắt nguồn từ câu nói của nhà thơ Mpu Tantular ở
Inđônêxia “Bhineka Tungga Ika” (nghĩa là “thống nhất trong đa dạng”), và ngày nay,
câu nói này đã trở thành thuật ngữ phổ biến khi nói về văn hóa Đông Nam Á.
Có lẽ, trên thế giới, hiếm có khu vực nào vừa mang tính đa dạng mà cũng vừa
mang tính thống nhất như ở khu vực Đông Nam Á. Sự đa dạng và thống nhất ấy được
biểu hiện trên nhiều mặt, từ cơ sở nền tảng tạo thành cho đến đời sống sinh hoạt vật chất
lẫn tinh thần của cư dân Đông Nam Á.
Ở đây, đề tài không trình bày theo hệ thống tiến trình phát triển của lịch sử văn
hóa Đông Nam Á từ cổ chí kim, mà đề cập đến những thành tố cấu thành nên nền văn
hóa truyền thống Đông Nam Á đó. Trong đề tài này, được chia thành ba chương:
Chương I: Những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
Chương II: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân
Đông Nam Á
Chương III: “Thống nhất trong đa dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư
dân Đông Nam Á
Trong mỗi chương, đều có phần chú thích và hình ảnh minh hoạ cụ thể để làm rõ
nội dung đã được trình bày. Hy vọng rằng, đề tài này sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn “tổng
thể về văn hóa Đông Nam Á”, một thực tế của nền văn hóa tương đồng và đa sắc thái,
mà chúng tôi dùng ý tưởng “thống nhất trong đa dạng” để đề cập đến. Bên cạnh đó,
chúng ta sẽ hiểu biết thêm về những người bạn láng giềng của mình, đã kết “thành hội
thành thuyền” trong quá trình phát triển, vươn lên theo xu thế khu vực và hội nhập thế
giới.
Tóm lại, văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, mà năng lực của người
viết lại có hạn, dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn cũng không tránh khỏi những
sai sót. Kính mong quý Thầy Cô và quý đồng nghiệp lượng thứ cho những sai sót và rất
mong đón nhận được nhiều ý kiến chỉ dẫn thêm.
PHẦN TÓM TẮT
Tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á, đề cập
đến nét chung và riêng của văn hóa Đông Nam Á, và cũng là một nét văn hóa đặc sắc,
tiêu biểu cho khu vực, đó là tương đồng và đa sắc thái, được thể hiện trên nhiều lĩnh
vực. Với vị trí địa lý thuận lợi, Đông Nam Á trở thành cửa ngõ giao lưu qua lại giữa
những nền văn minh lớn, nơi giao thương giữa các quốc gia, châu lục, là điều kiện thuận
lợi để cho các nước trong khu vực tiếp cận với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, với khí
hậu nhiệt đới châu Á gió mùa, Đông Nam Á sớm có điều kiện phát triển nghề nông
trồng lúa và đã trở thành một nền kinh tế chính của khu vực. Đông Nam Á vốn có
chung cội nguồn về tộc người - từ một loại chủng Môngôlôit phương Nam (tiểu chủng
Đông Nam Á), sau quá trình tiếp cận và giao lưu đã tạo cho Đông Nam Á một khu vực
đa sắc tộc, đa ngôn ngữ. Các nhà nước, quốc gia Đông Nam Á từ khi ra đời cho đến
nay, có sự thay đổi lớn về ranh giới, địa phận ở mỗi quốc gia, tuy ở những phương diện
khác nhau nhưng tất cả các nước đều có chung hoàn cảnh lịch sử nên dễ dàng thông
cảm cho nhau trong quá trình phát triển, vươn lên và hội nhập.
Với nền tảng như thế, cho nên đã hình thành trong nếp sống của cư dân Đông
Nam Á những phương thức sinh hoạt từ thức ăn, trang phục, nhà ở đến các công trình
kiến trúc và điêu khắc đồ sộ, đều có những nét chung với nhau, dựa trên nền tảng của cơ
tầng văn hóa bản địa, của cư dân nông nghiệp lúa nước, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng
rất lớn từ nền văn hóa lớn của hai quốc gia láng giềng là Ấn Độ và Trung Hoa. Từ xa
xưa, đời sống tâm linh của cư dân Đông Nam Á, đã được quan tâm đến bằng những tín
ngưỡng bản địa đặc sắc, bên cạnh đó, với sự du nhập của các tôn giáo từ bên ngoài vào,
đã được người dân ở đây tiếp nhận và hòa trộn với nền văn hóa bản địa, đáp ứng được
nhu cầu và nguyện vọng của họ. Là cư dân nông nghiệp lúa nước, cho nên, các dân tộc
Đông Nam Á có các lễ hội và phong tục tập quán vừa mang bản sắc riêng đa sắc màu,
vừa mang dáng dấp chung của nền nông nghiệp trồng lúa nước. Các hoạt động này vừa
giúp cho cư dân thoả mãn những nhu cầu về đời sống tâm linh, vừa kèm theo các hình
thức vui chơi, giải trí, nhằm tạo một không khí đoàn kết và thân thiện lẫn nhau giữa các
con người trong một cộng đồng chung, làng xóm nói riêng, cả khu vực nói chung. Một
hình thức giải trí khác cũng không kém phần hấp dẫn đối với cư dân Đông Nam Á, đó
là nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống, và do các nước có sự tiếp cận, giao lưu
và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cho nên nền nghệ thuật truyền thống của mỗi nước
vừa có nét tương đồng về nội dung lẫn phương pháp vừa có sự đa dạng về hình thức
biểu diễn.
Nhìn chung, văn hóa truyền thống Đông Nam Á, dựa trên nền tảng của nên nông
nghiệp lúa nước, đã tạo ra cho cư dân ở đây một đời sống sinh hoạt cả vật chất lẫn tinh
thần đều vô cùng độc đáo, vừa mang tính thống nhất vừa mang tính đa dạng, một sắc
thái rất riêng Đông Nam Á.
DANH SÁCH CÁC BIỂU BẢNG, HÌNH ẢNH MINH HỌA
Danh sách biểu bảng:
Biểu bảng 1: Tộc người chủ thể và tỷ lệ đạt được so với tổng dân số trong nước
ở các nước Đông Nam Á
Biểu bảng 2: Tình hình tôn giáo ở các nước trong khu vực Đông Nam Á
Danh sách hình ảnh minh họa:
Hình 1: Bản đồ các quốc gia Đông Nam Á
Hình 2: Bản đồ vương quốc Hồi giáo Brunây
Hình 3: Bản đồ vương quốc Cămpuchia
Hình 4: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Đông Timo
Hình 5: Bản đồ Cộng hòa Inđônêxia
Hình 6: Bản đồ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Hình 7: Bản đồ Liên bang Malaixia
Hình 8: Bản đồ Liên bang Mianma
Hình 9: Bản đồ Cộng hòa Philippin
Hình 10: Bản đồ Cộng hòa Xingapo
Hình 11: Bản đồ vương quốc Thái Lan
Hình 12: Bản đồ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Hình 13: Núi lửa ở Philippin
Hình 14: Ruộng bậc thang ở Sapa - Việt Nam
Hình 15: Đoạn sông Mê Kông từ Cămpuchia chảy về Việt Nam
Hình 16: Cánh đồng lúa chín ở Việt Nam
Hình 17: Bờ biển của đất nước Đông Timo
Hình 18: Bữa cơm truyền thống của gia đình người Việt (cơm - rau - cá)
Hình 19: Cơm lam của người Lào và một số dân tộc ở Việt Nam
Hình 20: Nasi goreng (cơm rang) của tộc người Melayu
Hình 21: Nasi ulam (cơm rau sống) của tộc người Melayu
Hình 22: Mắm bò hóc của người Campuchia
Hình 23: Solok Cili (ớt xanh nhồi cá băm nhuyễn hấp) của người Mã Lai
Hình 24: Bánh Ketupat trong lễ hội - lễ tết của người Mã Lai
Hình 25: Bánh chưng, bánh tét trong ngày Tết của dân tộc Việt và một số dân
tộc Đông Nam Á khác
Hình 26: Nam cởi trần đóng khố
Hình 27: Trang phục ngày Tết của phụ nữ H’mông
Hình 28: Chiếc áo yếm của nhiều dân tộc Đông Nam Á
Hình 29: Trang phục truyền thống của người Mianma
Hình 30: Trang phục truyền thống của người Việt Nam
Hình 31: Nhà sàn người Thái
Hình 32: Nhà dài của người Ê Đê
Hình 33: Nhà hình thuyền
Hình 34: Nhà đất
Hình 35: Nhà hiện đại
Hình 36: Thánh địa Mỹ Sơn ở Việt Nam
Hình 37: Ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
Hình 38: Đền Ăngco Vát ở Cămpuchia
Hình 39: Đền Bayon của Angkor Thom ở Cămpuchia
Hình 40: Chùa tháp ở Pagan - Mianma
Hình 41: Cung điện Hoàng gia ở Băng Cốc - Thái Lan
Hình 42: Thạt Luổng ở Viên Chăn - Lào
Hình 43: Pho tượng Phật bằng đồng ở Đồng Dương (Quảng Nam - Việt Nam)
Hình 44: Bức phù điêu về Đức Phật của ngôi đền Bôrôbuđua ở Inđônêxia
Hình 45: Nụ cười đền Bayon ở Ăngco Thom - Cămpuchia
Hình 46: Vũ nữ Apsara ở đền Ăngco Vát
Hình 47: Bức phù điêu ở đền Sukhôthay - cố đô Thái
Hình 48: Những chạm khắc hình lá bao quanh Thạt Luổng ở Lào
Hình 49: Tượng phật bằng vàng tại chùa Mahamuni
Hình 50: Một trong 18 vị La Hán chùa Tây Phương - Hà Nội
Hình 51: Bia Võ Cạnh (Khánh Hòa) xác định chữ Sanskrit và Pali vào Chăm Pa
sớm nhất
Hình 52: Chữ Khơ Me (Sanskrit) được ghi ở đền Ăngco Vát của Cămpuchia
Hình 53: Bộ sách chữ Thái cổ
Hình 54: Di sản chữ Nôm (tiếp thu từ chữ Hán) của người Việt
Hình 55: Tục thờ sinh thực khí “nõ - nường” ở Phú Thọ - Việt Nam
Hình 56: Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện trên những bức tượng điêu khắc
Hình 57: Tín ngưỡng phồn thực thể hiện ở Nhà mồ Tây Nguyên
Hình 58: Tượng thờ Linga và Yoni ở Mỹ Sơn - Việt Nam
Hình 59: Bàn thờ tổ tiên trong gia đình người Việt
Hình 60: Ấn Độ giáo thời ba vị thần Brama, Visnu và Siva
Hình 61: Tượng của Đức Phật được rắn thần Naga bảo vệ
Hình 62: Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng cũng
tham gia những đường cày đầu tiên trong Lễ hội xuống đồng ở Lào Cai -
Việt Nam
Hình 63: Lễ hội Té nước ở Thái Lan, Cămpuchia
Hình 64: Lễ hội Loi Krathồng (thả đèn trong một cái chén lá) ở Thái Lan
Hình 65: Hội đền Hai bà Trưng
Hình 66: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khơ Me
Hình 67: Tết cổ truyền người Lào
Hình 68: Hát quan họ trên thuyền quanh giếng Ngọc - Cổ Loa
Hình 69: Chơi đu - trò chơi dân gian không thể thiếu được trong ngày hội
Hình 70: Cô gái duyên dáng trong thi thổi cơm
Hình 71: Tục cướp dâu của dân tộc H’mông ở Việt Nam
Hình 72: Đêm chợ tình ở Sa Pa - Lào Cai (Việt Nam)
Hình 73: Lễ cưới truyền thống ở Việt Nam
Hình 74: Trầu để nhai
Hình 75: Trầu cau trong ngày cưới
Hình 76: Đua thuyền rồng tại Băng Cốc - Thái Lan
Hình 77: Chọi gà ở một làng quê Việt Nam
Hình 78: Thi thả diều quốc tế ở Việt Nam
Hình 79: Bịt mắt bắt dê
Hình 80: Kéo co
Hình 81: Ô lò cò
Hình 82: Rối bóng ở Malaixia - Xingapo
Hình 83: Rối nước
Hình 84: Wayang Topeng (múa mặt nạ) ở Giava - Inđônêxia
Hình 85: Wayang Wong (múa mặt nạ) ở Bali - Inđônêxia
Hình 86: Múa Lakhon của người Thái
Hình 87: Sân khấu Mayong ở Malaixia
Hình 88: Lakhon Basac của người Cămpuchia
Hình 89: Hát Dù kê của người Khơ Me Nam Bộ Việt Nam
Hình 90: Cờ ASEAN
Hình 91: Ban lãnh đạo các nước ASEAN
Hình 92: Cờ biểu trưng ASEAN 2010
Hình 93: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt tay thân mật với Quốc vương Brunây
Haji Hassanal Bolkiah
Hình 94: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Cămpuchia Hun Sen
duyệt đội danh dự Quân đội Nhân dân Việt Nam
Hình 95: Tổng thống Inđônêxia Susilo Bambang Yudhoyono tiếp Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng
Hình 96: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào Chummaly Sayason
Hình 97: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Malaixia Abdul Razak
Hình 98: Chủ tịch hội đồng quốc gia Mianma Than Shwe tiếp Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng
Hình 99: Tổng thống Philippines Gloria Arroyo tiếp Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng
Hình 100: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Thái Lan Abhisit
Vejjajiva
Hình 101: Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long đón Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết
Hình 102: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp Bộ trưởng Công thương và Du
lịch Đông Ti-mo Gil da Costa AN. Alves
Hình 103: Đông Nam Á không còn là một vùng bị chia rẽ mà sẽ gắn kết trong tổ
chức ASEAN hội nhập vào quốc tế
Hình 104: Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2006
Hình 105: Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy nâng cốc chúc mừng vị thế thành
viên thứ 150 của Việt Nam
VIẾT TẮT
Viết tắt theo tiếng Anh:
APEC: Asia Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN: Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM: The Asia Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
SEAMEO: Southeast Asian Ministers of Education Organization
Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á
WTO: World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
Viết tắt theo tiếng Việt:
CN: Công Nguyên
CNXHKH: Chủ nghĩa Xã hội Khoa học
KHXH Khoa học Xã hội
KHXH & NVQG: Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
NXB: Nhà xuất bản
TC: Tạp chí
T.CN: Trước Công Nguyên
Sđd: Sách đã dẫn
MỞ ĐẦU
I. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
1. Mục tiêu
Đề tài tập trung khai thác những yếu tố tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng”
của văn hóa truyền thống Đông Nam Á. Trong đó, đề tài sẽ làm rõ những yếu tố như
điều kiện tự nhiên; dân tộc và ngôn ngữ; nền kinh tế truyền thống và tiến trình phát triển
lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á. Từ đó, đi đến khẳng định, đây là cơ sở tạo nên
tính “thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: thức ăn, trang
phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc. Qua đó, đề tài đi đến khẳng định: đời sống văn hóa
vật chất của cư dân Đông Nam Á rất đa dạng, tuy nhiên trong nền văn hóa đó đều thể
hiện những nét tương đồng, thống nhất trong chiều sâu cuộc sống của họ.
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất trong đa
dạng” về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Đông Nam Á qua các mặt: chữ viết, tín
ngưỡng - tôn giáo, lễ hội và phong tục tập quán và nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Từ
đó, đề tài sẽ rút ra những điểm tương đồng và khác biệt về đời sống văn hóa tinh thần -
nét đặc trưng nổi bật trong đời sống văn hóa truyền thống ở các quốc gia Đông Nam Á.
2. Nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu gồm ba phần:
Phần 1: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu khai thác những khía cạnh để tạo nên tính
“thống nhất trong đa dạng” của văn hóa truyền thống Đông Nam Á.
Trước tiên, đề tài sẽ đi vào xem xét về điều kiện tự nhiên, như các mặt: vị trí địa
lý, địa hình, khí hậu và động, thực vật ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, yếu tố dân tộc và
ngôn ngữ cũng là những điều kiện cần thiết tạo nên tính đặc trưng của nền văn hóa này.
Xuất phát từ một nguồn nhân chủng Môngôlôit phương Nam, qua quá trình giao lưu và
lan tỏa, đã hình thành nên những tộc người khác nhau ở Đông Nam Á. Đồng thời, có
chung một nguồn gốc ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử, dần dần cũng hình thành nên
những ngữ hệ khác nhau trong khu vực. Nền kinh tế truyền thống cũng là yếu tố cực kỳ
quan trọng tạo nên đặc trưng văn hóa khu vực, đặc biệt là nghề nông trồng lúa. Sau
cùng, sự tương đồng trong tiến trình lịch sử của các quốc gia Đông Nam Á cũng là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên tính tương đồng trong văn hóa truyền
thống Đông Nam Á.
Phần 2: đề tài sẽ tập trung nghiên cứu những biểu hiện của tính “thống nhất
trong đa dạng” về đời sống văn hóa vật chất của cư dân Đông Nam Á: thức ăn, trang
phục, nhà ở, kiến trúc và điêu khắc.
Trong bữa ăn truyền thống của cư dân Đông Nam Á chủ yếu là ăn cơm, rau, cá
hay thịt. Từ gạo, cư dân Đông Nam Á đã chế biến ra nhiều loại thức ăn khác hay các
loại bánh để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày và lễ hội. Còn về trang phục
truyền thống của cư dân Đông Nam Á là nam đóng khố, nữ mặc váy, cởi trần, dần về
sau y phục có sự thay đổi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng: yếm, áo chui,
quần, váy… Tùy mỗi quốc gia, dân tộc mà trang phục truyền thống của họ hoặc thêm
vào hay bớt đi, tạo nên bức tranh muôn màu trong trang phục cư dân Đông Nam Á. Về
nhà ở, kiểu nhà sàn là kiểu nhà truyền thống, đồng thời, nhà hình thuyền, nhà đất, nhà
1
Phần 3: đề tài tập trung khai thác những biểu hiện của tính “thống n