Nước ta từ sau Đại Hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một bước ngoặt có tính chất quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cơ chế thị trường đã có sự tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng. Cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải luôn tìm cách để hoạt động có hiệu quả và thu được nhiều lợi nhuận nhất. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải hoàn thiện tất cả các khâu vận hành của mình trong khả năng có thể, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến công cụ kế toán. Kế toán là công cụ quản lý hiệu quả tài sản, tiền vốn và quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, đồng thời là nguồn cung cấp thông tin và số liệu đáng tin cậy để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy việc đổi mới, hoàn thiện công tác kế toán để phù hợp với yêu cầu của cơ chế quản lý mới là một vấn đề vô cùng cấp thiết.
Trong công tác kế toán nói chung, kế toán “tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm” là phân hệ quan trọng vì mục tiêu đặt ra của các doanh nghiệp là sản xuất sản phẩm chất lượng tốt, với chi phí sản xuất tiết kiệm nhất và giá thành sản phẩm thấp ở mức có thể, một mặt làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, mặt khác đảm bảo sự tồn tại và củng cố vị thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp cần tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác và kịp thời, đúng đối tượng, đúng phương pháp, và đúng chế độ quy định. Chính vì vậy công tác kế toán này luôn được sự quan tâm sâu sắc của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Để hiểu rõ hơn nội dung và tầm quan trọng của công tác tổ chức kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm nên trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà, em đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu và lựa chọn đề tài:”Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà”
112 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1934 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề tài: Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần VPP Hồng HàLỜI NÓI ĐẦU
Nước ta từ sau Đại Hội Đảng lần thứ VI (1986) đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một bước ngoặt có tính chất quyết định đối với sự phát triển của đất nước. Cơ chế thị trường đã có sự tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nói chung và đến từng doanh nghiệp nói riêng. Cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải luôn tìm cách để hoạt động có hiệu quả và thu được nhiều lợi nhuận nhất. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải hoàn thiện tất cả các khâu vận hành của mình trong khả năng có thể, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến công cụ kế toán. Kế toán là công cụ quản lý hiệu quả tài sản, tiền vốn và quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, đồng thời là nguồn cung cấp thông tin và số liệu đáng tin cậy để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy việc đổi mới, hoàn thiện công tác kế toán để phù hợp với yêu cầu của cơ chế quản lý mới là một vấn đề vô cùng cấp thiết.
Trong công tác kế toán nói chung, kế toán “tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm” là phân hệ quan trọng vì mục tiêu đặt ra của các doanh nghiệp là sản xuất sản phẩm chất lượng tốt, với chi phí sản xuất tiết kiệm nhất và giá thành sản phẩm thấp ở mức có thể, một mặt làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, mặt khác đảm bảo sự tồn tại và củng cố vị thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp cần tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác và kịp thời, đúng đối tượng, đúng phương pháp, và đúng chế độ quy định. Chính vì vậy công tác kế toán này luôn được sự quan tâm sâu sắc của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác, Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Để hiểu rõ hơn nội dung và tầm quan trọng của công tác tổ chức kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm nên trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà, em đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu và lựa chọn đề tài:”Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần VPP Hồng Hà”
Kết cấu luận văn của em gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Văn phòng phẩm Hồng Hà.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty Cổ phần Văn phòng phẩm Hồng Hà
Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo cũng như các cô, các anh chị ở phòng kế toán của Công ty nhưng do thời gian tiếp cận thực tế còn ít và trình độ lý luận còn hạn chế nên bài luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em mong muốn được tiếp thu những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các cô, các anh chị phòng kế toán Công ty để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn – Thạc sỹ Mai Thị Bích Ngọc cùng toàn thể các cô, các anh chị trong phòng kế toán của Văn Công ty Cổ phần văn phòng phẩm Hồng Hà đã giúp em hoàn thành luận văn này.
Chương 1
Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
1.1. Sự cần thiết khách quan phải tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và xu thế mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp có sự chuyển biến đáng kể.
Đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, mở ra một cơ hội lớn cho các Doanh nghiệp Việt Nam, nhưng bên cạnh đó thách thức cũng không nhỏ. Để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường trong nước và các doanh nghiệp ngoài nước, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tận dụng, phát huy tối đa những lợi thế của mình so với các doanh nghiệp khác.
Những lợi thế đó được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có lợi thế về chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm. Để tạo ra lợi thế này, các doanh nghiệp cần quan tâm đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, vì trên thực tế, đó là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất luôn gắn liền với việc sử dụng vật tư, tài sản, và là cơ sở tạo nên giá thành sản phẩm, tiết kiệm được chi phí sản xuất là điều kiện để hạ giá thành sản phẩm. Kế toán chi phí sẽ giúp nhà quản lý có thể tiến hành phân tích và đưa ra một cơ cấu chi phí hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
1.1.1. Khái niệm, bản chất chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất
Bất kỳ doanh nghiệp nào, để tiến hành sản xuất kinh doanh, cũng cần có đủ ba yếu tố cơ bản, đó là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất chính là quá trình kết hợp ba yếu tố đó để tạo ra các loại sản phẩm lao vụ và dịch vụ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Chi phí sẽ phát sinh khi doanh nghiệp sử dụng các yếu tố trên. Đó là các chi phí nguyên vật liệu, chi phí khấu hao TSCĐ( hao phí bằng tiền lao động vật hóa), chi phí nhân công( hao phí bằng tiền lao động sống), chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền. Để xác định và tổng hợp được các chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong thời kỳ hoạt động thì mọi chi phí chi ra đều phải biểu hiện bằng thước đo tiền tệ. Trong quá trình sản xuất doanh nghiệp còn phải bỏ ra nhiều chi phí như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, nhưng chỉ những chi phí nào phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp mới được coi là chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải được tính toán và tập hợp theo từng thời kỳ: tháng, quý, năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
Như vậy, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền toàn bộ về hao phí lao động sống, lao động vật hóa và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ dịch vụ, trong một thời kỳ nhất định.
Chi phí sản xuất luôn biểu hiện ở 2 mặt: mặt định tính và mặt định lượng:
Mặt định tính của chi phí sản xuất được biểu hiện là các chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất bằng tiền hay hiện vật.
Mặt định lượng của chi phí sản xuất thể hiện ở mức độ tiêu hao cụ thể của từng loại chi phí tham gia vào quá trình sản xuất để cấu tạo nên sản phẩm của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền.
Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai nhân tố cơ bản:
Khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao trong kỳ.
Giá cả của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí
Xét về thực chất thì chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào đối tượng tính giá nhất định, nó là vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Giá thành sản phẩm
Để quản lý có hiệu quả và kịp thời đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp cần phải biết số chi phí đã chi ra cho từng loại hoạt động, từng loại sản phẩm, dịch vụ là bao nhiêu, số chi phí đã chi ra đã cấu thành trong số sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành là bao nhiêu… chỉ tiêu thỏa mãn được những thông tin mang các nội dung trên chính là giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa được tính trên một khối lượng kết quả sản phẩm lao vụ, dịch vụ hoàn thành nhất định.
Như vậy, bản chất của giá thành là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào những sản phẩm nhất định đã hoàn thành. Giá thành có hai chức năng chủ yếu là chức năng thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác định, vừa mang tính chất khách quan vừa mang tính chất chủ quan. Trong hệ thống các chỉ tiêu quản lý của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như tính đúng đắn của các giải pháp kinh tế, kỹ thuật, và công nghệ mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản xuất, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để định giá bán cũng như xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất. Vì vậy các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến việc quản lý chỉ tiêu này.
1.1.2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Về mặt bản chất thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là biểu hiện hai mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Chúng giống nhau về chất vì đều cùng biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
Nhưng do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kỳ không đều nhau nên chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại khác nhau trên hai phương diện:
Về mặt phạm vi: chi phí sản xuất gắn với một thời kỳ nhất định, còn giá thành sản phẩm gắn với khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã hoàn thành.
Về mặt lượng: chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể khác nhau khi có sản phẩm sản xuất dở dang đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Cụ thể : chi phí sản xuất bao gồm toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm hoàn thành, sản phẩm làm dở, còn giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí liên quan đến sản phẩm hoàn thành, nó bao gồm cả chi phí kỳ trước chuyển sang và không bao gồm chi phí của sản phẩm làm dở cuối kỳ.Sự khác nhau về mặt lượng và mối quan hệ này thể hiện ở công thức giá thành tổng quát sau:
Tổng giá thành sản phẩm
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Trong trường hợp đặc biệt khi chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ bằng chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ hoặc không có sản phẩm làm dở thì tổng giá thành bằng tổng chi phí sản xuất trong kỳ.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau: Một bên chi phí sản xuất là đầu vào là nguyên nhân dẫn đến kết quả đầu ra là giá thành sản phẩm. Mặt khác số liệu của kế toán tập hợp chi phí là cơ sở để tính giá thành sản phẩm vì vậy tiết kiệm được chi phí sẽ hạ được giá thành sản phẩm.
1.1.3. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
Yêu cầu đặt ra với các doanh nghiệp sản xuất là phải tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Để thực hiện yêu cầu này, các doanh nghiệp cần sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp quản lý với công cụ kế toán mà cụ thể là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Việc phân tích đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ đạt được khi có giá thành sản phẩm chính xác, mà tính chính xác của giá thành sản phẩm lại chịu ảnh hưởng của kết quả tập hợp chi phí sản xuất. Vì vậy, việc tổ chức kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp, ở từng bộ phận, từng đối tượng, góp phần tăng cường quản lý tài sản, vật tư lao động, tiền vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả. Mặt khác tạo điều kiện phấn đấu tiết kiệm chi phí hạ thấp giá thành sản phẩm. Do vậy, tổ chức tốt công tác tập hợp chi phí sản xuất một cách chính xác, kịp thời đúng đối tượng, đúng chế độ qui định, đúng phương pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng và là yêu cầu cấp bách trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.
1.1.4. Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Nhận thức đúng đắn vị trí vai trò của kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong toàn bộ hệ thống kế toán trong doanh nghiệp, mối quan hệ với các bộ phận kế toán có liên quan, trong đó kế toán các yếu tố chi phí là tiền đề cho kế toán chi phí và tính giá thành.
Xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý doanh nghiệp.
Tổ chức bộ máy kế toán một cách khoa học, hợp lý dựa trên cơ sở phân công rõ ràng trách nhiệm của từng thành viên, từng bộ phận kế toán có liên quan đặc biệt bộ phận kế toán các yếu tố chi phí.
Thực hiện tổ chức chứng từ, hạch toán ban đầu, hệ thống tài khoản, sổ kế toán phù hợp với các nguyên tắc chuẩn mực, chế độ kế toán đảm bảo đáp ứng được yêu cầu thu nhận – xử lý – hệ thống hóa thông tin về chi phí, giá thành của doanh nghiệp.
Tổ chức lập và phân tích các báo cáo kế toán về chi phí, giá thành sản phẩm, cung cấp những thông tin cần thiết về chi phí, giá thành sản phẩm, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra được các quyết định một cách nhanh chóng, phù hợp với quá trình sản xuất – tiêu thụ sản phẩm
Tổ chức kiểm kê và đánh giá khối lượng sản phẩm làm dở khoa học hợp lý, xác định giá thành và hạch toán giá thành sản phẩm hoàn thành sản xuất trong kỳ một cách đầy đủ chính xác.
1.2. Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, nhiều thứ khác nhau. Để thuận tiện cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí cũng như phục vụ cho việc ra các quyết định kinh doanh, chi phí sản xuất cần phải được phân loại theo những tiêu thức phù hợp. Phân loại chi phí có rất nhiều tiêu thức, ở đây em xin chú trọng trình bày cách phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố và theo khoản mục.
1.2.1.1. Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí (theo yếu tố chi phí)
Theo cách phân loại này, người ta sắp xếp các chi phí có cùng nội dung và tính chất kinh tế vào một loại gọi là yếu tố chi phí, mà không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực hoạt động nào. Vì vậy, cách phân loại này còn được gọi là phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố.
Theo chế độ kế toán hiện hành tại Việt Nam, khi quản lý và hạch toán chi phí sản xuất, các doanh nghiệp phải theo dõi được chi phí theo 5 yếu tố sau:
Chi phí nguyên liệu và vật liệu: yếu tố này bao gồm giá mua, chi phí mua của nguyên vật liệu dùng vào hoạt động sản xuất trong kỳ. Yếu tố này bao gồm: chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế và chi phí nguyên vật liệu khác.
Chi phí nhân công: yếu tố này là các khoản chi phí về tiền lương phải trả cho người lao động, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo tiền lương của người lao động.
Chi phí khấu hao máy móc thiết bị: yếu tố chi phí này bao gồm khấu hao của tất cả TSCĐ dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền phải trả cho các dịch vụ mua ngoài phục vụ cho các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Chi phí khác bằng tiền: là các khoản chi phí bằng tiền phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố chi phí nói trên.
Phân loại chi phí theo yếu tố có tác dụng cho biết nội dung, kết cấu tỷ trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã sử dụng vào quá trình sản xuất trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Số liệu chi phí sản xuất theo yếu tố là cơ sở để xây dựng các dự toán chi phí sản xuất, xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, xây dựng các kế hoạch về lao động, vật tư, tài sản…trong doanh nghiệp. Nó còn là cơ sở để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, cung cấp số liệu để lập thuyết minh báo cáo tài chính phục vụ cho việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị.
1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh tế (theo khoản mục)
Căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí để sắp xếp những chi phí có cùng một mục đích và công dụng vào cùng một khoản mục chi phí, không xem xét nội dung kinh tế ban đầu của chi phí. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp được chia thành 3 khoản mục:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ chi phí nguyên vật liệu được sử dụng trực tiếp cho quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm, lao vụ dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp : bao gồm tiền lương và các khoản phải trả trực tiếp cho công nhân sản xuất, các khoản trích theo tiền lương của công nhân sản xuất như kinh phí công đoàn, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội.
Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí sản xuất liên quan đến việc phục vụ và quản lý sản xuất trong phạm vi các phân xưởng, đội sản xuất. Chi phí sản xuất chung bao gồm các yếu tố chi phí sản xuất sau:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng: Bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý, nhân viên kinh tế…tại phân xưởng sản xuất.
+ Chi phí vật liệu: Bao gồm vật liệu các loại dùng cho nhu cầu sản xuất chung tại phân xưởng (tổ, đội) sản xuất.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất: Là chi phí về dụng cụ, công cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung tại phân xưởng( tổ, đội) sản xuất.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao của TSCĐ hữu hình, vô hình, TSCĐ thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng( tổ, đội) sản xuất.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm các khoản chi về dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài để sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng( tổ, đội) sản xuất.
+ Chi phí bằng tiền khác: Bao gồm các khoản chi phí về dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài để sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng( tổ, đội) sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này có tác dụng cho yêu cầu quản lý chi phí theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành cho kỳ sau.
1.2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.
Nghiên cứu chi phí theo yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thì toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành chi phí ban đầu và chi phí luân chuyển nội bộ.
- Chi phí ban đầu bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền.
- Chi phí luân chuyển nội bộ: là các chi phí phát sinh trong quá trình phân công và hợp tác lao động trong doanh nghiệp.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng đối với quản lý vĩ mô cũng như đối với quản trị doanh nghiệp. Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố đầu vào là cơ sở để lập và kiểm tra việc thực hiện dự toán chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố, là cơ sở để lập kế hoạch cân đối trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như ở từng doanh nghiệp; là cơ sở xác định mức tiêu hao vật chất, tính thu nhập quốc dân cho nghành, toàn bộ nền kinh tế.
1.2.1.3 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ của chi phí với các khoản mục trên báo cáo tài chính.
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành:
Chi phí sản phẩm
Chi phí thời kỳ.
1.2.1.4 Phân loại chi phí sản xuất theo khả năng qui nạp chi phí vào các đối tượng kế toán chi phí
Theo tiêu thức này chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành 2 loại :
Chi phí trực tiếp
Chi phí gián tiếp.
1.2.1.5 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh
Bao gồm chi phí cơ bản và chi phí chung.
Cách phân loại này giúp các nhà quản trị doanh nghiệp xác định được phương hướng tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm.
1.2.1.6 Phân loại chi phí sản xuất theo mối