Theo tôi, một người giáo viên khi đứng trên bục giảng không phải chỉ có vai trò,
nhiệm vụ như một người thông báo cho học sinh các kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa, không phải chỉ cần nắm vững kiến thức là có thể đứng trên bục giảng và nghiễm
nhiên trở thành một người thầy. Người thầy giáo khi đứng trên bục gảng để đảm đương
đầy đủ và đúng nghĩa vai trò của mình cần phải trang bị cho bản thân không chỉ vốn kiến
thức, hiểu biết khoa học rộng mà điều quan trọng hơn cả là phải có phương pháp giảng
dạy tốt, phải có cách thức giảng làm sao để học sinh- người học dễ hiểu, hiểu đúng và
vận dụng được các kiến thức đó vào cuộc sống, đồng thời qua đó, giáo dục người học khả
năng tự lực, tích cực chiếm lĩnh tri thức, hướng đến khả năng tự học ở bản thân mỗi
người học.
- Tuy nhiên, thực tế nền giáo dục truyền thống, vấn đề phương pháp giảng dạy chưa
được quan tâm đúng mức, người dạy chỉ truyền thụ các kiến thức có sẵn, mang tính chất
thông báo, người học chỉ tiếp nhận thông tin một chiều, kết quả là quá trình dạy học đào
tạo ra những con người chỉ là những thợ học, thụ động, thiếu khả năng xử lí linh hoạt với
các tình huống trong cuộc sống
129 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức dạy học chương mắt, các dụng cụ quang theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA VẬT LÍ
‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Nguyễn Mạnh Hùng
Sinh viên thực hiện: Lê Bá Mạnh Hùng
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2008
LỜI CẢM ƠN
Để có thể được làm luận văn tốt nghiệp này, lời dầu tiên, tôi xin chân
thành cảm ơn toàn thể quí thầy cô giảng viên khoa Vật Lý, cảm ơn quý thầy cô
đã tận tình dạy dỗ tôi trong bốn năm học qua.
Để hoàn thành luận văn này, trước hết, tôi xin gửi cảm ơn chân thành,
sâu sắc nhất đến thầy Nguyễn Mạnh Hùng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo, động viên tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Kế đến, tôi xin cảm ơn thầy Nguyễn Văn Vinh đã cho phép tôi giảng dạy
tại lớp, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo các kinh nghiệm giảng dạy trong quá trình
tôi vận dụng thực giảng phương pháp mới.
Ngoài ra, tôi cũng xin cảm ơn ban giám hiệu trường THPT Bùi Thị
Xuân, Quận I đã tạo điều kiện cho phép tôi giảng dạy thử phương pháp mới tại
trường.
Lời cuối cùng, tôi xin kính chúc quí thầy cô trong ban giám hiệu nhà
trường cùng toàn thể quý thầy cô trong khoa Vật Lý sức khỏe, thành đạt, niềm
vui trong cuộc sống và công việc.
Sinh viên Lê Bá Mạnh Hùng
Niên khóa 2004-2008
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
- Theo tôi, một người giáo viên khi đứng trên bục giảng không phải chỉ có vai trò,
nhiệm vụ như một người thông báo cho học sinh các kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa, không phải chỉ cần nắm vững kiến thức là có thể đứng trên bục giảng và nghiễm
nhiên trở thành một người thầy. Người thầy giáo khi đứng trên bục gảng để đảm đương
đầy đủ và đúng nghĩa vai trò của mình cần phải trang bị cho bản thân không chỉ vốn kiến
thức, hiểu biết khoa học rộng mà điều quan trọng hơn cả là phải có phương pháp giảng
dạy tốt, phải có cách thức giảng làm sao để học sinh- người học dễ hiểu, hiểu đúng và
vận dụng được các kiến thức đó vào cuộc sống, đồng thời qua đó, giáo dục người học khả
năng tự lực, tích cực chiếm lĩnh tri thức, hướng đến khả năng tự học ở bản thân mỗi
người học.
- Tuy nhiên, thực tế nền giáo dục truyền thống, vấn đề phương pháp giảng dạy chưa
được quan tâm đúng mức, người dạy chỉ truyền thụ các kiến thức có sẵn, mang tính chất
thông báo, người học chỉ tiếp nhận thông tin một chiều, kết quả là quá trình dạy học đào
tạo ra những con người chỉ là những thợ học, thụ động, thiếu khả năng xử lí linh hoạt với
các tình huống trong cuộc sống.
- Hiện nay, việc đổi mới phương pháp, phát huy tính tích cực, tự lực trong dạy học
được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Bản thân tôi là một sinh viên sư phạm, chuẩn bị ra
trường trở thành người giáo viên nên việc nghiên cứu, rèn luyện cho bản thân một
phương pháp dạy học phù hợp là rất cần thiết và có ích.
- Do đó, tôi đã chọn bộ môn phương pháp giảng dạy để làm luận văn tốt nghiệp. Được
sự hướng dẫn, giới thiệu của thầy Nguyễn Mạnh Hùng, tôi đã chọn và thực hiện đề tài:
“Tổ chức dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lý 11- nâng cao) theo định
hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh” làm luận văn tốt nghiệp. Hy vọng rằng
với đề tài này, tôi có thể chuẩn bị cho mình hành trang để trở thành người giáo viên tốt
trong tương lai.
2. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài:
- Do thời gian làm luận văn có hạn, những tài liệu mà tôi tiếp cận cũng không nhiều
nên những nghiên cứu liên quan đến đề tài, tôi cũng không được trực tiếp đọc và nghiên
cứu. Đa số những tư liệu mà tôi sử dụng trong bài luận văn này đều được dịch lại và biên
soạn lại theo tư tưởng của các tác giả trong nước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu những tài
liệu có được, tôi cũng có một số thông tin về các nghiên cứu liên quan đến phương pháp
dạy học tích cực.
- Trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền giáo dục phát triển, phương pháp giáo dục
nhằm hướng đến phát huy tính tích cực, tự lực, năng lực tư duy sáng tạo đã được nghiên
cứu từ rất lâu. Cụ thể là nhà giáo dục Đức A. Đixtervec đã khởi xướng phương pháp giáo
dục tích cực từ năm 1956. Đến những năm 70 của thế kỉ XX, ông I.F. Kharlamop đã
nghiên cứu sâu sắc hơn và hệ thống lại trong các phương pháp giáo dục tích cực của nền
giáo dục Xô viết trong cuốn sách “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào ?”
(Sơ thảo về lý luận dạy học) (NxbGD.1978. Người dịch: Đỗ Thị Trang, Nguyễn Ngọc
Quang). Ngoài ra còn rất nhiều tác giả khác như Polya, K.Đ. Usinxki, M.Vaxiliep, L.V.
Đancôp, A.Anhstanh(Mỹ).
- Ở nước ta, ngày nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học
tích cực của các tác giả Phạm Hữu Tòng, Nguyễn Ngọc Quang, Từ những năm 90, giới
nghiên cứu LLDH Việt Nam tập trung nghiên cứu Phương pháp giáo dục tích cực LẤY
NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM với định nghĩa và các đặc trưng cơ bản sau:
“ PPGD tích cực lấy người học làm trung tâm là sự tích hợp thường xuyên các mối
quan hệ giáo dục trò – lớp – thầy trong quá trình hoạt động giáo dục theo quan điểm
người học là trung tâm với những đặc trưng cơ bản sau đây:
1) Trò là chủ thể của hoạt động giáo dục.
2) Lớp – Lớp học là cộng đồng các chủ thể, là thực tiễn xã hội ngày nay và cả ngày mai
của người học ở ngay trong nhà trường. Lớp học được tổ chức nhằm mục đích giáo dục,
làm môi trường xã hội trung gian giữa trò và thầy.
3) Thầy là người định hướng, đạo diễn cho học sinh tự mình khám phá ra kiến thức cùng
với cách tìm ra kiến thức. Là người tổ chức cho trò biết cách hành động và hợp tác với
các bạn và thầy để tự mình khám phá ra chân lí, cùng với cách tìm ra và ứng dụng chân lí
trong cuộc sống.
4) Tự đánh giá, sau khi trao đổi, hợp tác với bạn và dựa vào kết luận của thầy người học
tự đánh giá lại sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa chữa lỗi lầm mắc phải trong sản phẩm
đó, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách giải quyết vấn đề và tự điều chỉnh, tự hoàn
thiện một sản phẩm tiến bộ hơn sản phẩm ban đầu, một sản phẩm khoa học.”
- Ngoài ra, còn một số đề tài luận văn của các anh chị là sinh viên trường Đại Học Sư
Phạm cũng nghiên cứu về phương pháp định hướng, tổ chức hành động học tập tích cực
cho học sinh cũng là các tài liệu hay để tham khảo.
- Tuy nhiên, phần nhiều những nghiên cứu trên mang nặng tính lí thuyết, khả năng
ứng dụng vào thực tế giảng dạy, phù hợp với hoàn cảnh giáo dục cụ thể là không cao.
Chính vì vậy, để bản thân tôi có một phương pháp giáo dục tích cực thích hợp và có thể
sử dụng để giảng dạy trong tương lai, tôi đã tiến hành nghiên cứu, làm luận văn: “Tổ
chức dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lý 11- nâng cao) theo định hướng
phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh”
3. Mục đích của việc nghiên cứu:
- Nghiên cứu phương pháp tổ chức hoạt động học tập vật lí tích cực, tự lực cho học
sinh trung học phổ thông, cụ phể là:
Phương pháp định hướng hành động học tập vật lí tự lực.
Phương pháp kích thích sự say mê, hứng thú, tích cực học tập vật lí .
Phương pháp kiểm tra đánh giá hành động học tập vật lí tích cực, tự lực cho học sinh
4. Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:
- Đọc tài liệu có liên quan
- Xây dựng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh
- Soạn giáo án theo lí thuyết đã đề ra
- Vận dụng giảng một số tiết học
- Rút kinh nghiệm, hoàn thiện lí thuyết đã đề ra.
5. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu và tham khảo các tài liệu về tâm lí, giáo dục học đại cương, triết học,
có liên quan đến phương pháp dạy học và các tài liệu về phương pháp dạy học tích cực.
- Phương pháp thực nghiệm: vận dụng lí thuyết đã nghiên cứu, rút kết được vào việc
soạn giáo án một số bài trong chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lí 11- nâng cao)
sau đó vận dụng thực tế giảng dạy và rút ra các kết luận.
6. Phạm vi giới hạn của đề tài:
- Do thời gian và khả năng của em có hạn, việc nghiên cứu và ứng dụng đề tài chỉ áp
dụng cho một số bài trong chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lí 11- nâng cao). Cụ
thể là bài:
Thấu kính mỏng
Mắt
Kính lúp
Thực hành: “Đo tiêu cự của thấu kính phân kì”
Đồng thời, để dễ dàng hơn cho việc soạn giáo án và tiến hành giảng dạy, luận văn này
chỉ tiến hành thực giảng trên đối tượng học sinh giỏi, khá, các em học sinh trong lớp học
khá đều nhau.
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÍ LUẬN
A. CƠ SỞ CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
I. Tại sao phải dạy học theo hướng phát triển tính tích cực, tự lực
cho học sinh?
Xã hội hiện nay phát triển không ngừng, sự phát triển này làm thay đổi rất
nhiều vấn đề kinh tế xã hội, nó tác động đến nhiều mặt của cuộc sống. Những kiến thức
mới không ngừng được tạo ra và phát triển, dạy học không thể cung cấp cho học sinh
toàn bộ những kiến thức tự nhiên, xã hội,mà dạy học chỉ có thể rèn luyện cho người
học khả năng tích cực, tự chủ, năng động, có khả năng thích nghi cao với hoàn cảnh
sống không ngừng thay đổi.
Trong Nghị quyết TW lần 4 về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo” (tháng 1-1993) đã nhấn mạnh việc đào tạo những con người tự chủ, năng động và
sáng tạo, có đủ năng lực giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, tự do được việc
làm, lập nghiệp, thăng tiến trong cuộc sống và qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay đã được xác định rõ tại hội nghị ban
chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 2 (khóa VIII). Đó là đào tạo thế hệ trẻ có
những phẩm chất năng lực sau:
- Có lí tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, ý chí kiên cường,
xây dựng đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ Tổ quốc.
- Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam.
- Có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa
học hiện đại. Có tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có
tính tổ chức kỉ luật.
- Có sức khỏe.
Muốn đào tạo được con người khi vào đời là con người tự chủ, năng động,
sáng tạo thì phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và
phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động và sáng tạo ngay trong học
tập và lao động ở trường và ở nhà.
Các phương pháp dạy học đã có hiện nay chủ yếu chỉ dựa trên những yêu
cầu của xã hội cũ, chủ yếu là việc cung cấp và truyền thụ các kiến thức và kĩ năng tương
ứng theo một chiều: “Thầy truyền thụ, trò tiếp nhận”. Có hai hình thức chủ yếu:
+ Kiểu dạy thứ nhất là người giáo viên truyền đạt (thông báo) cho học sinh các tri
thức về thế giới tự nhiên và phương thức hoạt động của con người, còn học sinh thì tiếp
thu các thông tin ấy một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua các phương tiện khác
nhau như lời nói, đồ vật, với các hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Học sinh cố gắng
hiểu, ghi nhận và ghi nhớ các thông tin ấy. Dù giáo viên hoạt động giảng bài hay cho học
sinh nghiên cứu sách giáo khoa, hay dùng các phương tiện hiện đại như phim, ảnh, máy
chiếu hình, các thí nghiệm thì bản chất của nó vẫn là thầy cung cấp thông tin còn học
sinh thì tiếp thu thông tin với tất cả các phương tiện mình có. Kiểu dạy học này còn được
gọi là giải thích- minh họa hoặc thông tin- tiếp thu.
+ Kiểu dạy thứ hai là giáo viên tạo ra những điều kiện để học sinh nhớ lại, củng cố,
vận dụng theo mẫu những tri thức và phương thức hoạt động mà học sinh đã tiếp thu
được từ giáo viên. Nó thể hiện ở việc giáo viên cho luyện tập, làm bài tập, làm các thí
nghiệm theo mẫu hoặc có cải biên Kiểu dạy học này dùng củng cố kiến thức, rèn luyện
kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh và được gọi là dạy học tái hiện.
Với nhịp độ phát triển của khoa học, kĩ thuật, công nghệ, của mọi mặt đời sống xã hội
nhanh chóng đến mức trong một đời người đã diễn ra nhiều thay đổi, con người có thể
tiếp nhận thông tin tri thức từ nhiều nguồn khác nhau, người thầy không thể nắm vững và
truyền thụ hết tất cả các thông tin cho học trò, con người cần phải tự lực tiếp thu thêm các
tri thức, kĩ năng mới, biết phát hiện và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh một cách tự
lực, sáng tạo. Chính những đòi hỏi này đặt ra yêu cầu đối với dạy học nói chung và với
dạy học vật lý nói riêng là cần phải có một phương pháp mới nâng cao tính tích cực, tự
lực của người học.
Phương pháp nói trên trong khoa học giáo dục thuộc về hệ thống các “phương pháp
giáo dục tích cực”, lấy người học làm trung tâm, người học giữ vai trò chủ động, tích cực
trong quá trình học tập và không còn ở thụ động như khi dùng phương pháp cổ truyền.
II. Cần thiết và có thể dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
tự lực của học sinh (Cơ sở của phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh)
1. Cơ sở sinh học
Học thuyết Pavlôp về phản xạ có điều kiện với lí luận dạy học:
Cũng như các động vật khác, con người sinh ra đã có sẵn một số kiến thức làm cơ sở
cho hành động, do những phản xạ không điều kiện.
Tuy nhiên các “kinh nghiệm di truyền” là không nhiều và chỉ thích hợp với một số
hoàn cảnh xác định, bất biến trong khi môi trường sống là đa dạng và luôn biến động. Do
đó, động vật và người sống được là phản ứng có hiệu quả với các tác nhân mới lạ của môi
trường, nhờ cơ chế thành lập các phản xạ có điều kiện trong thực tiễn cuộc sống hằng
ngày.
Nhờ dạy học các phản xạ có điều kiện mà ta điều chỉnh được các hành động một cách
tích cực, chủ động và ăn khớp với môi trường sống. Pavlop tiến hành thí nghiệm cho chó
ăn cơm sau khi bật đèn sáng hoặc bấm chuông. Lặp đi lặp lại nhiều lần, tạo thành phản xạ
có điều kiện.
Theo Pavlôp, dạy là thành lập những phản xạ có diều kiện hình thành kinh nghiệm
hành động, học là hình thành những phản xạ trả lời mới chưa có trong vốn phản xạ không
điều kiện được di truyền.
Cơ chế hình thành một phản xạ có điều kiện là phối hợp một kích thích có điều kiện
với một kích thích không điều kiện để tạo ra một trả lời không điều kiện. Theo đó, quá
trình dạy học gồm các khâu chủ yếu sau:
+ Xác định yêu cầu dạy học
+ Tăng hiệu quả dạy học
Theo học thuyết này, bài học là do người thầy đưa ra, áp đặt cho đối tượng học, mục
đích và nội dung đều do người thầy định đoạt. Đó là dạy học thụ động, lấy việc dạy
(người thầy) làm trung tâm, người học thụ động tiếp thu những gì thầy truyền đạt.
Học thuyết B.F. Skinner
Theo Skinner, học là tự điều hòa hành vi dẫn đến một hành vi mong muốn bằng cách
thử sai.
Thí nghiệm nổi tiếng theo trường phái Skinner là dạy bồ câu cách chọn đúng thức ăn
trong đời sống thiên nhiên, dạy chuột đạp cần câu cơm
Trong các thí nghiệm trên, mục tiêu, động cơ hành động của người học (chim bồ câu,
chuột) là không do chủ quan người dạy áp đặt mà xuất phát từ động cơ bình thường trong
đời sống, người dạy dạy cái mà người học cần chứ không chỉ áp đặt theo ý đồ riêng của
mình.
Từ thực nghiệm, Skinner rút ra được ba quan niệm lí thuyết:
- Chỉ học cái đang làm, làm là để học. Hiểu biết tức là hành động có hiệu quả.
- Học bằng kinh nghiệm: trẻ phải được tiếp xúc với môi trường nó đang sống. Giáo
viên phải cung cấp cho học sinh cơ hôi tích lũy kinh nghiệm bản thân.
- Học bằng cách thử sai.
Theo Skiner, ông có khuynh hướng lập lại hành vi nào đem lại hiệu quả và có lợi,
động cơ học là ích lợi, vì vậy trong dạy học cần phải luôn có thưởng tức thì. Học thuyết
Skinner còn gọi là học thuyết về phản xạ có điều kiện chủ động, bài học là vì lợi ích của
chính người học, mục đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học quyết
định. Đó là dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm. Trong quá trình này, người
học tích cực, tự lực, chủ động tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình.
(Tài liệu tham khảo 4)
2. Triết học
Theo quan điểm nhận thức luận duy vật biện chứng thì quá trình nhận thức diễn ra
theo con đường: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”. Cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn là
động lực, mục đích và tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức. Thực tiễn là
những hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội. Thực tiễn bao gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện
và kết quả... và nhiều dạng hoạt động. Chính từ trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
mà nhận thức con người được hình thành và phát triển. Quá trình học tập của học sinh về
bản chất là quá trình nhận thức những kinh nghiệm của nhân loại đã tích lũy được. Do đó
quá trình này cũng phải được tổ chức theo các qui luật nhận thức của chủ nghĩa duy vật,
tức là phải thông qua hoạt động thực tiễn của chính học sinh.
Theo qui luật phát triển của sự vật, ngoại lực dù quan trọng đến đâu cũng chỉ là nhân
tố hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện, nội lực mới là nhân tố quyết định sự phát triển của bản
thân sự vật. Sự phát triển đạt được cao hay thấp tùy thuộc vào sự kết hợp giữa ngoại lực
và nội lực. Khi ngoại lực và nội lực cộng hưởng với nhau thì sự phát triển đạt trình độ
cao nhất. Áp dụng quy luật trên vào quá trình dạy học: Thầy- dạy, tác động dạy của thầy
là ngoại lực, môi trường giáo dục (lớp học, nhà trường, xã hội) cũng là ngoại lực. Trò-
học mà học là quá trình hoạt động nhận thức của chủ thể trò thì bản thân sức tự học, tự
phát triển của trò là nội lực. Tác động của thầy dù quan trong đến đâu cũng chỉ là ngoại
lực, là yếu tố thúc đẩy, xúc tác, tạo điều kiện cho trò phát triển và trưởng thành. Tác động
của môi trường xã hội cũng chỉ là ngoại lực tạo điều kiện thuận lợi cho người học. Sự tự
học hay năng lực tự học của trò dù là non nớt đến đâu vẫn là nội lực quyết định sự phát
triển của bản thân người học. Chất lượng giáo dục đạt đỉnh cao khi tác động của ngoại
lực (thầy, môi trường học tập) cộng hưởng được với nội lực- năng lực tự học của trò.
Chính vì vậy, hoạt động dạy học cần được tổ chức sao cho người học phát huy được
tối đa tinh thần tích cực, tự lực, hoàn thành các nhiệm vụ học tập nhằm phát triển, hoàn
thiện nhân cách bản thân.
3. Giáo dục học
Theo quan điểm của giáo dục học, học là hành động của người học thích ứng với tình
huống, qua đó, người học chiếm lĩnh được kinh nghiệm xã hội, lịch sử biến thành năng
lực thể chất tinh thần của cá nhân, hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân.
Mục đích của giáo dục là phát triển nhân cách của người học một cách toàn diện và
hài hòa. Trong cấu trúc của cá nhân thì phát triển trí tuệ giữ vai trò quyết định, chính vì
vậy, việc tổ chức hoạt động dạy học sao cho người học hình thành được nhân cách tự
chủ, tích cực, sáng tạo, có khả năng giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra là rất cần
thiết.
4. Tâm lý học
Tâm lí học hoạt động là một trong những cơ sở quan trọng khẳng định yêu cầu của
việc tổ chức hoạt động học tập tích cực, tự lực cho học sinh.
Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ của mình với thế giới bên
ngoài (tự nhiên và xã hội), giữa mình với người khác, giữa mình với bản thân. Trong quá
trình đó, con người bộc lộ tâm lí (năng lực, ý chí, mong muốn) ra bên ngoài. Diễn ra
song song với quá trình này là quá trình con người chuyển đối tượng hoạt động của mình
vào thế giới nội tâm tạo nên tâm lí, nhân cách bản thân. Tóm lại, trong quan hệ giữa mình
với bên ngoài, con người vừa thay đổi thế giới bên ngoài, vừa thay đổi bản thân, vừa tạo
ra sản phẩm lao động đồng thời hình thành nên nhân cách bản thân.
Cấu trúc hoạt động (theo A.N Lêonchive) bao gồm: động cơ, mục đích, các hành
động, các thao tác.
Dạy học là một chức năng xã hội nhằm truyền thụ, giúp đỡ cho người học lĩnh hội
được kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được, nhằm biến kinh nghiệm xã hội
thành phẩm chất, năng lực cá nhân.
Hoạt động dạy học bao gồm hai hoạt động liên quan mật thiết với nhau, đó là hoạt
động dạy và hoạt động học. Theo D.B Enconin, có 3 thành phần