Trong mấy chục năm qua, nhân dân ta đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ để xây dựng nền giáo dục mới đạt được những thành tựu to lớn. Điều đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh về sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.
Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng loài người bước vào một nền văn minh mới. Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang đứng trước những nhiệm vụ rất vinh quang nhưng cũng rất nặng nề, đòi hỏi chúng ta tìm tòi những con đường có hiệu quả nhất để tiến lên phía trước một cách nhanh chóng và bền vững.
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, thời đại bùng nổ thông tin, Đảng và Nhà nước ta coi: “Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục-đào tạo nước ta cũng có những bước chuyển biến mạnh mẽ, đó là quy mô được mở rộng khắp mọi nơi đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân, mạng lưới các trường học được xây dựng đều khắp các vùng dân cư, nhiều trường học kiên cố được xây dựng, công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được phát triển mở rộng, học sinh đạt giải kỳ thi các cấp và quốc gia và quốc tế ngày càng cao. Đặc biệt đã được phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập Trung học cơ sở. Các nguồn lực dành cho giáo dục ngày càng tăng, đội ngũ cán bộ, giáo viên là lực lượng chủ chốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và được đào tạo chính quy, tại chức cơ bản đảm bảo về số lượng và chất lượng trình độ, chuyên môn nghiệp vụ chuẩn và trên chuẩn, có đầy đủ năng lực, phẩm chất chính trị đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Trong trường học, khi nói đến những thành tựu trên là phải nói đến vai trò lãnh đạo của người Hiệu trưởng, chức năng cơ bản nhất trong quản lý của người hiệu trưởng đó là; công tác kiểm tra, kiểm tra là bước không thể thiếu đối với người hiệu trưởng vì đó là công việc hoạt động nghiệp vụ mà bất kỳ người quản lý ở cấp nào cũng phải thực hiện để biết rõ những kế hoạch, mục tiêu đề ra trên thực tế đã đạt được đến đâu và như thế nào, từ đó đề ra những biện pháp động viên, giúp đỡ, uốn nắn và điều chỉnh nhằm thúc đẩy các cá nhân và tổ chức phát triển. Trong quản lý, nếu không có kiểm tra thì mọi hoạt động trong chuyên môn sẽ không có hiệu quả trong quá trình thực hiện kế hoạch, quyết định. Qua kiểm tra nhằm mục đích đánh giá, xem xét hoạt động của cá nhân, giúp đỡ và tổ chức có phù hợp với nhiệm vụ đề ra hay không, đồng thời phát hiện, tìm tòi những khả năng sáng tạo của cấp dưới để kịp thời bồi dưỡng hoặc điều chỉnh về mặt nhân sự và giúp cho quá trình quản lý được chặt chẽ hơn.
Kiểm tra không chỉ là điều chỉnh mà còn là phát triển. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa việc kiểm tra nội bộ trường học, nhất là việc dạy và học ở trường, bởi hoạt động này là trung tâm giữ vị trí quan trọng và chiếm hầu hết thời gian, công việc của thầy và trò.
Trường tiểu học N’Trang Lơng là một trường vùng sâu vùng xa, vùng có học sinh dân tộc thiểu số chiếm gần 80%, đội ngũ giáo viên có chuyên môn không đồng đều và đa số giáo viên trẻ. Để nâng cao chất lượng thì cần có đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn, năng lực và phẩm chất tốt, không ngừng học tập trau dồi kinh nghiệm để ngày càng hoàn thiện bản thân. Để đạt được kết quả ấy, Hiệu trưởng cần thường xuyên quan tâm đến nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên, nhằm từng bước đưa chất lượng chuyên môn của nhà trường ngày càng tiến bộ vững mạnh. Tuy nhiên, làm thế nào để song song với việc kiểm tra thì phải có được bồi dưỡng, gợi ý, hướng dẫn, phân tích để giáo viên thấy được ưu điểm, khuyết điểm, những thiếu sót và đặc biệt là nguyên nhân những tồn tại để giáo viên rút ra bài học kinh nghiệm, làm tốt hơn và xem chức năng hoạt động kiểm tra của nhà trường là một hoạt động thiết thực nhằm giúp cho giáo viên kịp thời uốn nắn những khuyết điểm để nâng cao năng lực chuyên môn của mình, thì lúc ấy hiệu quả từ việc kiểm tra sẽ cao hơn và có ý nghĩa hơn, giúp chuyển hoá hoạt động kiểm tra thành tự kiểm tra như Talet đã nói: “Hãy tự biết mình”.
23 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3253 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Lý do khách quan
Trong mấy chục năm qua, nhân dân ta đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ để xây dựng nền giáo dục mới đạt được những thành tựu to lớn. Điều đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh về sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.
Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng loài người bước vào một nền văn minh mới. Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang đứng trước những nhiệm vụ rất vinh quang nhưng cũng rất nặng nề, đòi hỏi chúng ta tìm tòi những con đường có hiệu quả nhất để tiến lên phía trước một cách nhanh chóng và bền vững.
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, thời đại bùng nổ thông tin, Đảng và Nhà nước ta coi: “Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục-đào tạo nước ta cũng có những bước chuyển biến mạnh mẽ, đó là quy mô được mở rộng khắp mọi nơi đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân, mạng lưới các trường học được xây dựng đều khắp các vùng dân cư, nhiều trường học kiên cố được xây dựng, công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được phát triển mở rộng, học sinh đạt giải kỳ thi các cấp và quốc gia và quốc tế ngày càng cao. Đặc biệt đã được phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập Trung học cơ sở. Các nguồn lực dành cho giáo dục ngày càng tăng, đội ngũ cán bộ, giáo viên là lực lượng chủ chốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và được đào tạo chính quy, tại chức cơ bản đảm bảo về số lượng và chất lượng trình độ, chuyên môn nghiệp vụ chuẩn và trên chuẩn, có đầy đủ năng lực, phẩm chất chính trị đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Trong trường học, khi nói đến những thành tựu trên là phải nói đến vai trò lãnh đạo của người Hiệu trưởng, chức năng cơ bản nhất trong quản lý của người hiệu trưởng đó là; công tác kiểm tra, kiểm tra là bước không thể thiếu đối với người hiệu trưởng vì đó là công việc hoạt động nghiệp vụ mà bất kỳ người quản lý ở cấp nào cũng phải thực hiện để biết rõ những kế hoạch, mục tiêu đề ra trên thực tế đã đạt được đến đâu và như thế nào, từ đó đề ra những biện pháp động viên, giúp đỡ, uốn nắn và điều chỉnh nhằm thúc đẩy các cá nhân và tổ chức phát triển. Trong quản lý, nếu không có kiểm tra thì mọi hoạt động trong chuyên môn sẽ không có hiệu quả trong quá trình thực hiện kế hoạch, quyết định. Qua kiểm tra nhằm mục đích đánh giá, xem xét hoạt động của cá nhân, giúp đỡ và tổ chức có phù hợp với nhiệm vụ đề ra hay không, đồng thời phát hiện, tìm tòi những khả năng sáng tạo của cấp dưới để kịp thời bồi dưỡng hoặc điều chỉnh về mặt nhân sự và giúp cho quá trình quản lý được chặt chẽ hơn.
Kiểm tra không chỉ là điều chỉnh mà còn là phát triển. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa việc kiểm tra nội bộ trường học, nhất là việc dạy và học ở trường, bởi hoạt động này là trung tâm giữ vị trí quan trọng và chiếm hầu hết thời gian, công việc của thầy và trò.
Trường tiểu học N’Trang Lơng là một trường vùng sâu vùng xa, vùng có học sinh dân tộc thiểu số chiếm gần 80%, đội ngũ giáo viên có chuyên môn không đồng đều và đa số giáo viên trẻ. Để nâng cao chất lượng thì cần có đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn, năng lực và phẩm chất tốt, không ngừng học tập trau dồi kinh nghiệm để ngày càng hoàn thiện bản thân. Để đạt được kết quả ấy, Hiệu trưởng cần thường xuyên quan tâm đến nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên, nhằm từng bước đưa chất lượng chuyên môn của nhà trường ngày càng tiến bộ vững mạnh. Tuy nhiên, làm thế nào để song song với việc kiểm tra thì phải có được bồi dưỡng, gợi ý, hướng dẫn, phân tích để giáo viên thấy được ưu điểm, khuyết điểm, những thiếu sót và đặc biệt là nguyên nhân những tồn tại để giáo viên rút ra bài học kinh nghiệm, làm tốt hơn và xem chức năng hoạt động kiểm tra của nhà trường là một hoạt động thiết thực nhằm giúp cho giáo viên kịp thời uốn nắn những khuyết điểm để nâng cao năng lực chuyên môn của mình, thì lúc ấy hiệu quả từ việc kiểm tra sẽ cao hơn và có ý nghĩa hơn, giúp chuyển hoá hoạt động kiểm tra thành tự kiểm tra như Talet đã nói: “Hãy tự biết mình”.
2. Lý do chủ quan
Đối với trường tiểu học N’Trang Lơng chúng tôi, những năm qua chất lượng học sinh lên lớp và hoàn thành chương trình tuểu học còn thấp so với yêu cầu chung của Sở giáo dục và Đào tạo. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng học tập chưa đồng đều của học sinh, trong đó một nguyên nhân phải nói đến đó là phương pháp giảng dạy của một số đội ngũ giáo viên trong trường chưa thật sự phù hợp với đối tượng học sinh; một số giáo viên lớn tuổi ngại đổi mới phương pháp giảng dạy; một số ít giáo viên trẻ mới ra trường kinh nghiệm giảng dạy còn hạn chế. Ba năm học gần đây nhà trường cũng luôn chú trọng đến công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn là công tác hàng đầu của hoạt động chuyên môn nhà trường, nhưng chất lượng học sinh hàng năm vẫn chưa cao. Chẳng hạn, học sinh hoàn thành chương trình tiểu học năm học 2006-2007 đạt trên 94%; năm học 2007-2008 đạt 95%; năm học 2008-2009 đạt 97%. Đó là điều mà Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên phải quan tâm để nâng cao hơn tỷ lệ hoàn thành chương trình tiểu học. Bản thân tôi với trọng trách là Hiệu trưởng, tôi luôn trăn trở, luôn luôn lo lắng và luôn suy nghĩ về vấn đề này, làm thế nào để không chỉ là nâng cao tỷ lệ hoàn thành chương trình tiểu học mà còn cả nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Trước tình hình đó, tôi tìm hiểu được nguyên nhân và càng nắm vững sâu sắc hơn về những tồn tại đó để xây dựng phù hợp kế hoạch tổ chức chỉ đạo của bản thân trong công tác quản lý của mình đó là cần phối hợp cái tài, cái tâm và cái tầm nhìn đúng mực thì mới có thể đẩy mạnh được chất lượng giáo dục của một trường tiểu học ở vùng sâu vùng xa, vùng có đa số học sinh dân tộc thiểu số nói riêng và trường tiểu học ở vùng sâu vùng xa nói chung.
II. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu
Tìm hiểu được ý nghĩa tác dụng quan trọng thực trạng của công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên trong nhà trường. Từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm và đề xuất cải tiến công tác kiểm tra về thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên hiệu quả cao hơn.
Tìm hiểu được cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của đề tài để hiệu trưởng có đủ cơ sở thực hiện nghiên cứu tốt hơn. Từ đó phân tích thực trạng công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên chính xác hơn.
Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi chỉ xin đề cập đến một nội dung trong nhiều nội dung của công tác kiểm tra nội bộ trường học, đó là: “Kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên” tại trường tiểu học N’Trang Lơng năm học 2009-2010.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở pháp lý và cơ sở lý luận của đề tài
1. Cơ sở pháp lý
-Căn cứ vào Điều lệ trường tiểu học ban hành theo quyết định số 51/2007/QĐ-BGDĐT ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+Điều 17, 18 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng về việc quản lý giáo viên, nhân viên, quản lý chuyên môn, phân công công tác, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, nhân viên,…
+Điều 15 Tổ chuyên môn
+Điều 21 Hội đồng thi đua khen thưởng, hội đồng tư vấn
+Điều 24 Quy định về chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học.
+Điều 26 Hoạt động giáo dục
+Điều 27 Quy định về hệ thống sổ sách theo dõi hoạt động giáo dục trong nhà trường.
+Điều 28 Đánh giá, xếp loại học sinh
+Điều 31 Quy định về nhiệm vụ của giáo viên
Và một số điều trong Điều lệ trường tiểu học.
-Quyết định số 06/2006/QĐ-BNV về việc ban hành quy chế đánh giá, xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông.
-Công văn số 3040/BGD&ĐT-TCCB ngày 7/4/2006 về việc hướng dẫn một số điều trong “Quy chế đánh giá, xếp loại giáo viên mầm non và giáo viên phổ thông, công lập”.
-Công văn số 10358/BGD&ĐT-GD Tiểu học ngày 28/9/2007 về hướng dẫn việc sử dụng chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học trong quá trình đánh giá xếp loại.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Một số khái niệm về công tác kiểm tra
Kiểm tra là xem xét, đánh giá tình trạng tốt xấu của việc đang làm hay là xét kỹ lưỡng, xem việc thực hiện đó có đúng hay không, đó là một trong những chức năng cơ bản của quản lý, là công việc mà bất kỳ cấp nào cũng phải thực hiện để biết rõ kế hoạch, mục tiêu đề ra trên thực tế đã đạt được đến đâu và như thế nào. Từ đó đề ra những biện pháp động viên, giúp đỡ, uốn nắn và điều chỉnh nhằm thúc đẩy các cá nhân và tổ chức phát triển.
Kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn là hoạt động kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định về chuyên môn của giáo viên theo yêu cầu của chương trình và những yêu cầu của đơn vị và ngành đề ra; từ đó xem xét và đánh giá trình độ hoạt động của đối tượng được kiểm tra trên cơ sở những sự kiện, dữ liệu đa dạng có hệ thống của toàn bộ các hoạt động và hiệu quả của tất cả các khâu trong quá trình hoạt động, giúp cho giáo viên khắc phục những tồn tại, không ngừng nâng cao năng lực sư phạm và hoạt động giáo dục của bản thân, đồng thời giúp cho người Hiệu trưởng có cơ sở điều chỉnh kịp thời công tác quản lý chỉ đạo, góp phần thúc đẩy sự phát triển sự nghiệp giáo dục của nhà trường.
2.2. Hiệu trưởng thấm nhuần nguyên tắc kiểm tra
Khi nói đến công tác kiểm tra là nói đến vai trò chỉ đạo của người quản lý, công tác này đòi hỏi người Hiệu trưởng phải thấm nhuần và nắm vững những nguyên tắc cơ bản của kiểm tra, đồng thời phải giúp cho giáo viên của mình hiểu rõ những nguyên tắc này, đó là: Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, khách quan; đảm bảo tính hiệu quả; đảm bảo tính thường xuyên, kịp thời; công khai, động viên thu hút quần chúng vào công tác kiểm tra, phải biến quá trình kiểm tra thành quá trình tự kiểm tra của người giáo viên, kết quả kiểm tra phải phản ánh đúng thực trạng về giáo viên, tránh định kiến, suy diễn cũng như tránh hình thức giả tạo, góp phần tạo bầu không khí lành mạnh trong tập thể, từ đó công việc kiểm tra dễ tiến hành hơn và hiệu quả của công việc kiểm tra sẽ cao hơn, có tác dụng đôn đốc, thúc đẩy việc thực hiện quy chế chuyên môn được tốt hơn, không phải có vấn đề mới là kiểm tra, mà kiểm tra là một công việc thường xuyên của Hiệu trưởng trường tiểu học.
2.3. Nhiệm vụ của kiểm tra
Hiệu trưởng tổ chức kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên là thực hiện kiểm tra, đánh giá, tư vấn, thúc đẩy, nhằm:
-Xem xét việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, trong đó có việc thực hiện quy chế chuyên môn theo qui định của chương trình và qui định mức độ đạt được của nhà trường do ban lãnh đạo đề ra.
-Xác định mức độ đạt được của từng giáo viên trong việc thực hiện quy chế chuyên môn theo quy định, đồng thời cũng phải phù hợp với bối cảnh và tuỳ vào đối tượng kiểm tra để xếp loại.
-Ban kiểm tra nhận xét, góp ý giúp cho giáo viên khắc phục được những hạn chế, cải thiện phương pháp học tập, rèn luyện của bản thân và học sinh của mình.
-Kích thích phát triển phổ biến những kinh nghiệm tốt, những định hướng mới về việc thực hiện quy chế chuyên môn nhằm giúp cho giáo viên được kiểm tra từng bước hoàn thiện hơn. Giáo viên tự kiểm tra trong tổ, chéo tổ, làm sao cho giáo viên thấy kiểm tra của nhà trường là công việc cần phải làm chứ không phải là một gánh nặng cho giáo viên, từ đó giáo viên có ý thức cao trong quá trình tự điều chỉnh, có trách nhiệm cố gắng phấn đấu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
2.4. Những nội dung Hiệu trưởng thực hiện chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên
-Thực hiện chương trình kế hoạch giảng dạy, giáo dục:
+Đủ số bài, đủ nội dung từng bài theo yêu cầu phân phối chương trình về học bài mới, luyện tập và ôn tập tổng kết chương, học kỳ…
+Thực hiện đúng thứ tự trình tự tiết chương trình thời khoá biểu và đúng thời gian qui định.
+Thực hiện đúng việc dạy thay, dạy bù của giáo viên khi nghỉ.
+Thực hiện đủ chế độ cho điểm kiểm tra như: kiểm tra miệng, khảo sát chất lượng đầu năm, kiểm tra giữa học kỳ và cuối kỳ,…theo quy định.
-Thực hiện các yêu cầu về soạn bài, soạn giáo án bổ sung đúng quy định (nếu có).
-Kiểm tra và chấm bài, quan tâm giúp đỡ đến từng đối tượng học sinh như: học sinh khuyết tật, khó khăn, cá biệt…
-Tham gia các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn và tập huấn nghiệp vụ chuyên môn như: Sử dụng ĐDDH, phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm,..Tự bồi dưỡng và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
-Đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về hồ sơ và các quy định về chuyên môn.
-Tuân thủ các quy định về dạy thêm, học thêm, dạy phụ đạo học sinh yếu kém.
-Tham gia điều tra độ tuổi học sinh và công tác vận động học sinh ra lớp, duy trì sĩ số học sinh. Làm tốt công tác phối hợp với gia đình và xã hội để giáo dục học sinh.
-Thực hiện đồng phục nơi công sở và tham gia các phong trào làm ĐDDH theo vùng miền, phong trào văn nghệ, thể dục thể thao,…
Sau khi đã thu thập được những thông tin từ quá trình kiểm tra sẽ giúp Hiệu trưởng tổng hợp, đối chiếu, phân tích, phát hiện sai lệch (nếu có), tìm hiểu nguyên nhân của những ưu khuyết điểm đó. Có tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại đó thì người quản lý mới có quyết định kịp thời điều chỉnh những thiếu sót để hoàn thành tốt việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên.
2.5. Những phương pháp và hình thức vận dụng kiểm tra
2.5.1. Phương pháp kiểm tra
Tuỳ theo đặc điểm đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, thời gian và tình huống mà có thể sử dụng nhiều phương pháp kiểm tra khác nhau để thu thập được những thông tin đáng tin cậy, các phương pháp kiểm tra phổ biến là:
+Phương pháp quan sát: dự giờ (thao giảng chuyên đề); quan sát các hoạt động của thầy và trò,…
+Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu sản phẩm: xem xét, phân tích các loại hồ sơ sổ sách, đồ dùng dạy học tự làm của giáo viên; biên bản hội họp, thao giảng, dự giờ của tổ chuyên môn,…
+Phương pháp tác động trực tiếp đối tượng: trao đổi, phỏng vấn, kiểm tra qua học sinh, các giáo viên đồng nghiệp, thư viên-thiết bị,…
+Phương pháp tham dự các hoạt động giáo dục cụ thể: tham dự các buổi sinh hoạt, hoạt động trong và ngoài nhà trường, sinh hoạt đoàn thể,…
2.5.2. Hình thức kiểm tra
Kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên kết hợp với kiểm tra toàn diện 1/3 đội ngũ giáo viên giảng dạy của nhà trường, tuỳ theo tình hình cụ thể để sử dụng nhiều hình thức kiểm tra khác nhau như:
+Theo thời gian: có thể kiểm tra đột xuất hay định kỳ.
+Theo phương pháp: có thể kiểm tra trực tiếp hay gián tiếp.
+Theo số lượng của đối tượng kiểm tra: có thể kiểm tra toàn bộ hay kiểm tra có lựa chọn.
Cần sử dụng nhiều phương pháp và phối hợp tối ưu các phương pháp và hình thức kiểm tra, qua kiểm tra sẽ rút ra những kết luận có căn cứ, chính xác để đánh giá đúng đắn, khách quan việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên.
2.6. Quy trình kiểm tra
2.6.1. Xây dựng kế hoạch kiểm tra
Kế hoạch kiểm tra của trường là bộ phận hữu cơ của kế hoạch năm học, đồng thời là mát xích trọng yếu của chu trình quản lý. Xây dựng kế hoạch kiểm tra của hiệu trưởng phải phù hợp với tình hình thực tế và điều kiện cụ thể của trường để có tính khả thi cao.
Kế hoạch kiểm tra phải được xây dựng ngay từ đầu năm học, đối với việc kiểm tra quy chế chuyên môn của giáo viên là phải kiểm tra toàn bộ đội ngũ một cách tương đồng giữa các lớp.
Kế hoạch kiểm tra cần đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và phù hợp với kế hoạch, chủ đề của năm học.
Lên kế hoạch kiểm tra cả một năm học, tháng, tuần thật chi tiết: Nội dung công việc và tên giáo viên, thời gian tiến hành và các đề mục cụ thể ở các loại kế hoạch năm, tháng, tuần, bảo đảm được tính ổn định tương đối của kế hoạch, có thể thiết kế dưới dạng sơ đồ, biểu bảng và treo ở văn phòng nhà trường, vào vị trí dễ theo dõi.
2.6.2. Các bước tổ chức kiểm tra tiến hành
*Xây dựng lực lượng kiểm tra
*Phân cấp trong kiểm tra
*Xây dựng chế độ kiểm tra
*Chỉ đạo kiểm tra
*Tổng kết và điều chỉnh kiểm tra
II. Thực trạng công tác kiểm tra việc thực hiện quy chế chuyên môn của giáo viên năm học 2009-2010
Đặc điểm tình hình nhà trường
Trường tiểu học N’Trang Lơng có 3 phân hiệu: Điểm chính ở Buôn ÊaYông A; điểm lẻ 1 ở Buôn ÊaYông B; điểm lẻ 2 ở Thôn Thạch Lũ. Học sinh phần lớn là con em nông dân và đại đa số là học sinh dân tộc thiểu số chiếm gần 80%. Có 4 dân tộc cùng học tại trường là: Êđê, Tày, Nùng, Kinh nên ngôn ngữ bất đồng. Địa bàn của trường chủ yếu ở 5 thôn, buôn đó là: Buôn ÊaYông A, Buôn ÊaYông B, Buôn Gha Mah, Thôn ÊaWi và Thôn Thạch Lũ.
Tổng diện tích của trường: 13 567m2; chia ra như sau:
+Điểm chính: 8 468 m2 diện tích sử dụng: 651,7m2
+Điểm lẻ 1: 2 243m2 diện tích sử dụng: 510 m2
+Điểm lẻ 2: 2 856m2 diện tích sử dụng: 360m2
Tổng diện tích chia đều bình quân trên mỗi học sinh là trên 21m2.
1.1. Về cơ sở vật chất
Năm học 2009-2010 trường có 27 phòng; trong đó có 9 phòng kiên cố, còn lại là bán kiên cố; mượn 4 phòng để sử dụng làm phòng hội họp, văn phòng làm việc, phòng thư viện và 1 phòng thiết bị. Phòng học và bàn ghế học sinh không đủ để tổ chức cho 100% lớp học 7-8buổi/tuần, có 135 bộ bàn ghế đạt chuẩn.
1.2. Về Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên (CBQL, GV, NV)
Tổng số CB, GV, NV: 46 người; trong đó CBQL: 03 người; có 01 Hiệu trưởng và 02 Phó hiệu trưởng, có 38 giáo viên; trong đó: giáo viên Âm nhạc: 02; trong đó có 01 giáo viên Âm nhạc kiêm Tổng phụ trách đội, GV Mỹ thuật: 02; Phụ trách công tác PCXM của toàn xã: 01, nhân viên có: 05 người; trong đó: 01 kế toán; 01 thư viện; 01 thiết bị; 01 văn thư và 01 bảo vệ hợp đồng trong biên chế. Toàn trường có tuổi đời từ 20 đến 51, có 42/46 người đã có gia đình.
1.3.Về công tác vận động học sinh
Năm học 2009-2010 trường đã vận động được 510 em đến trường với 25 lớp, trong đó nữ: 245; dân tộc: 399em, được chia ra các khối như sau:
Khối lớp
Số lớp
Tổng số học sinh
Học sinh dân tộc
Nữ
Nữ dân tộc
Một
5
100
80
48
40
Hai
5
89
74
52
43
Ba
5
105
76
38
28
Bốn
5
111
94
55
49
Năm
5
105
75
52
38
Tổng
25
510
399
245
198
a.Thuận lợi
Trong những năm học qua, trường đã được sự quan tâm của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dận xã ÊaYông và Phòng giáo dục cấp 15 máy vi tính cho học sinh, 35 bộ bàn ghế đúng quy cách cho học sinh. Đặc biệt là sự quan tâm của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện đã giúp đỡ, tạo nguồn kinh phí xây dựng, tu sửa nâng cấp 08 phòng học 02 điểm chính Buôn ÊaYông A.
Địa điểm nơi trường đóng phù hợp cố định lâu dài, có chiều hướng tốt cho phát triển xây dựng trường chuẩn Quốc gia. Thuận lợi cho học sinh tham gia học tập chuyên cần và đúng giờ.
Tất cả CB, GV, NV đều có tư tưởng chính trị vững vàng. Phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, tinh thần đoàn kết cao, có ý chí phấn đấu vươn lên, tâm huyết với nghề nghiệp, yêu nghề, mến trẻ, chấp hành tốt các cuộc vận động của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cuộc vận động mang tính xã hội lớn khác của các cấp.
Có 10 giáo viên giỏi cấp huyện rải đều ở các khối, đây là lực lượng nòng cốt trong phong trào thi đua “hai tốt” của nhà trường, hầu hết GV luôn quan tâm đến tình hình học tập và sinh hoạt của học sinh lớp mình, thường xuyên liên lạc, gặp gỡ với phụ huynh học sinh về học tập và rèn luyện của các em. Có ban đại diện Cha mẹ học sinh nhiệt tình, tích cực, trách nhiệm, hoạt động hội đạt hiệu quả cao.
Có chi bộ Đảng sinh hoạt độc lập, luôn chỉ đạo sáng suốt mọi hoạt động của nhà trường và các đoàn thể. Có chi đoàn thanh niên hoạt động sôi nổi. Công tác đội thiếu niên tiền phong ược xác định thiết thực, tổ chức nhiều nội dung phong trào hoạt động rất ý nghĩa. Năm 2009 phát triển đến 18 đảng viên, đều là những tấm gương sáng có tâm huyết với nghề nghiệp giáo dục của địa phương.
Học sinh ngoan, lễ phép, tích cực trong các phong trào thi đua như: thể dục thể thao, văn nghệ và các hoạt động trò chơi dân gian, phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phong trào rèn vở sạch chữ đẹp và các phong của đoàn, đội, sao nhi đồng, như: công tác Trần Quốc Toản, nuôi heo đất,…
b. Khó khăn
Nhận thức của nhân dân trong việc chăm lo học tập của con em còn hạn chế, chưa định hướng tương lai cho con em mình, vẫn còn quan niệm là chỉ cần cho