Tổ chức thương mại thế giới - WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm
1995 sau kết quả của vòng đàm phán Uruguay. Mục đích khi thành lập tổ chức này là tạo một
diễn đàn, là nơi để cho các Quốc gia đàm phán thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua việc dỡ
bỏ các hàng rào làm trở ngại đến tiến trình này. Là một cơ chế quốc tế bao gồm các Hiệp định đa
biên và nhiều bên về thương mại, tổ chức thương mại thế giới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
của các Quốc gia khác nhau có thể xâm nhập thị trường nước ngoài một cách tự do, bình đẳng và
không bị hạn chế nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận một cách hợp pháp.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, dần dần hội
nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo độc lập tự chủ thì việc xây dựng
một văn bản pháp lý có giá trị cao để điều chỉnh các nguyên tắc cơ bản khi tham gia hội nhập vào
nền kinh tế thế giới, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia tích cực
vào hoạt động ngoại thương là cần thiết. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra cho việc từng bước hội
nhập vào kinh tế thế giới và khu là nghiên cứu một cách nghiêm túc các quy định quốc tế, học tập
kinh nghiệm của các nước đi trước để vận dụng vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mình. Nhu
cầu áp dụng biện pháp tự vệ trong một số trường hợp để hạn chế sự gia tăng đột biến của một
loại sản phẩm cụ thể nào đó là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
nước phát triển.
21 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3671 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan chung về hiệp định tự vệ trong WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
* * *
TIỂU LUẬN
Toàn cầu hóa và WTO
Đề tài:
TỔNG QUAN CHUNG
VỀ HIỆP ĐỊNH TỰ VỆ TRONG WTO
NHÓM: 18
Thành viên nhóm:
- Nguyễn Huyền Trang - Lớp D 34
- Nguyễn Ngọc Minh - Lớp D 34
- Lê Thị Vân Anh - Lớp I 34
- Nguyễn Thị Mai Phương - Lớp I 34
- Nguyễn Trà Linh - Lớp I 34
Hà Nội, 2010
1
LỜI NÓI ĐẦU
Tổ chức thương mại thế giới - WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm
1995 sau kết quả của vòng đàm phán Uruguay. Mục đích khi thành lập tổ chức này là tạo một
diễn đàn, là nơi để cho các Quốc gia đàm phán thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua việc dỡ
bỏ các hàng rào làm trở ngại đến tiến trình này. Là một cơ chế quốc tế bao gồm các Hiệp định đa
biên và nhiều bên về thương mại, tổ chức thương mại thế giới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
của các Quốc gia khác nhau có thể xâm nhập thị trường nước ngoài một cách tự do, bình đẳng và
không bị hạn chế nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận một cách hợp pháp.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, dần dần hội
nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo độc lập tự chủ thì việc xây dựng
một văn bản pháp lý có giá trị cao để điều chỉnh các nguyên tắc cơ bản khi tham gia hội nhập vào
nền kinh tế thế giới, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia tích cực
vào hoạt động ngoại thương là cần thiết. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra cho việc từng bước hội
nhập vào kinh tế thế giới và khu là nghiên cứu một cách nghiêm túc các quy định quốc tế, học tập
kinh nghiệm của các nước đi trước để vận dụng vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mình. Nhu
cầu áp dụng biện pháp tự vệ trong một số trường hợp để hạn chế sự gia tăng đột biến của một
loại sản phẩm cụ thể nào đó là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
nước phát triển.
Xuất phát từ thực tiễn thương mại về bảo hộ hàng hoá tự vệ thương mại, với mong muốn tìm
hiểu sâu hơn về vấn đề này trên cơ sở đó có thể đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của hoạt động bảo hộ tự vệ thương mại cũng như của pháp luật về tự vệ thương mại ở
Việt Nam, Nhóm 18 đã chọn đề tài “Tổng quan về hiệp định tự vệ trong WTO” nhằm đưa đến
cho các bạn cái nhìn chung và toàn diện nhất về nội dung và ý nghĩa của hiệp định này.
Đây là một đề tài còn mới và chưa được nghiên cứu sâu, nguồn tài liệu tham khảo còn hạn
chế nên bài luận này không tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự phê bình, nhận
xét và đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
2
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
VỀ ĐIỀU KHOẢN TỰ VỆ TRONG WTO
* * * * *
1 / Khái niệm về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế có thể được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng: các biện pháp tự vệ bao gồm các biện pháp mà một nước sử dụng nhằm
bảo hộ cho các nhà sản xuất hay hàng hoá của nước đó trước sự cạnh tranh của hàng hoá nước
ngoài. Các biện pháp tự vệ theo nghĩa trên là rất rộng, được áp dụng trong nhiều trường hợp khác
nhau và chịu sự giám sát của các Hiệp định đa biên của WTO, chẳng hạn như các biện pháp kiểm
dịch thực vật, các biện pháp trợ cấp, các biện pháp chống bán phá giá…Cần lưu ý là các Hiệp
định đa biên tương ứng chịu trách nhiệm giám sát việc thực thi các biện pháp trên trong những
điều kiện chặt chẽ chứ không nhằm mục đích tạo điều kiện cho các nước thành viên sử dụng
thường xuyên các biện pháp bảo hộ trên nhằm làm cản trở đến tự do hoá thương mại.
- Theo nghĩa hẹp: các biện pháp tự vệ là các biện pháp thương mại khẩn cấp do một nước áp
dụng tạm thời để giúp làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngành công nghiệp nội địa của mình khi
ngành này bị tổn hại do hàng nhập khẩu gia tăng. Trong những điều kiện nhất định, một nước có
thể áp dụng những biện pháp thương mại nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu của một sản phẩm
nào đó để bảo vệ ngành sản xuất nội địa đó của mình. Đôi khi người ta còn gọi đó là “ điều khoản
giải thoát” bởi vì nó giúp cho một nước “thoát khỏi” nghĩa vụ của mình trong những trường hợp
đặc biệt. Theo cách hiểu này thì khi tiến hành mở cửa thị trường và thực thi chính sách tự do hoá
thương mại, ngành sản xuất trong nước có thể bị suy yếu và gặp khó khăn nghiêm trọng do gặp
phải sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài. Do vậy, ngành sản xuất đó có thể yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền của nước mình về khả năng áp dụng các biện pháp tự vệ để ngành này có thể thích
nghi được với sự cạnh tranh. Các biện pháp tự vệ trong trường hợp này chịu sự điều chỉnh của
Hiệp định về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO.
* Các nguyên tắc về các biện pháp tự vệ đầu tiên được quy định trong Điều XIX, GATT
1947, hiện nay đã được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ -
một trong các Hiệp định đa biên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Lời nói đầu của Hiệp định này đã ghi nhận rằng các Quốc gia thành viên thừa nhận sự
cần thiết phải làm rõ và củng cố các định chế của GATT 1994, đặc biệt là điều XIX của GATT
1994 nhằm thiết lập một sự giám sát đa phương trên cơ sở các biện pháp tự vệ và triệt tiêu các
3
biện pháp nhằm né tránh sự giám sát này. Theo đó, nếu do hậu quả của những diễn biến không
lường trước được của các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, một sản
phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện tới
mức gây tổn hại hay đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay
cạnh tranh trực tiếp trong nước thì bên ký kết có thể dừng hay trì hoãn thực hiện toàn bộ hay một
phần các cam kết theo các Hiệp định của WTO về hàng hoá, có thể rút bỏ hay điều chỉnh nhân
nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để
dự liệu và khắc phục tổn hại đó.
Trên cơ sở của Điều XIX của GATT 1947 và sau này Tổ chức thương mại thế giới WTO đã
kế thừa, Điều II, Hiệp định đa biên về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO cũng đã quy
định rằng một thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi thành
viên đó đã xác định được, theo những điều khoản trong Hiệp định, là sản phẩm đó được nhập
vào lãnh thổ mình khi có sự gia tăng nhập khẩu tương đối hay tuỵêt đối so với sản phẩm nội địa,
và theo đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa
sản xuất ra sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp.
2 / Lịch sử phát triển của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Theo quy định của GATT 1947
GATT 1947 quy định rằng nếu do hậu quả của những diễn biến không lường trước được của
các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, khi một sản phẩm được nhập
khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện gây tổn hại hay đe doạ
gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay cạnh tranh trực tiếp trong
nước thì bên ký kết có thể dừng toàn bộ hay một phần các cam kết, rút bỏ hay điều chỉnh nhân
nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để
dự liệu và khắc phục tổn hại đó.
Theo quy định của WTO
Thứ nhất, khác với quy định của GATT 1947, Hiệp định về các biện pháp tự vệ đã giải
thích cụ thể các điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ đồng thời làm rõ các khái niệm mà Hiệp
định chung GATT 1947 không quy định chặt chẽ. Việc giải thích này đã phần nào hạn chế việc
sử dụng tuỳ tiện các khái niệm dựa trên ý chí chủ quan của nước nhập khẩu.
4
Thứ hai, Hiệp định xoá bỏ biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hay bất kỳ các biện pháp
tương tự nào khác muộn nhất là đến ngày 1/1/1999 trừ trường hợp đặc biệt không quá một năm nhưng
phải được sự đồng ý của Tổ chức thương mại thế giới. Đó là trường hợp của Liên minh Châu âu đối với
việc nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản với thời gian kéo dài là muộn hơn 1 năm, đến ngày 1/1/2000.
Thứ ba, các nước thành viên nhập khẩu khi áp dụng biện pháp tự vệ phải chịu sự giám sát,
kiểm tra của Uỷ ban tự vệ của WTO, đồng thời phải tiến hành tham vấn các bên có liên quan để
các bên này có quyền trình bày ý kiến, quan điểm và đưa ra chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ tư, trong trường hợp cần thiết để ngăn chặn thiệt hại thì nước nhập khẩu có thể áp
dụng các biện pháp tự vệ tạm thời trong một thời hạn hợp lý với điều kiện các biện pháp điều tra
vẫn được tiến hành sau đó.
Thứ năm, thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ không kéo dài như trước đây mà giới hạn
trong khoảng thời gian tối đa là 8 năm.
Thứ sáu, GATT 1947 cho phép tự do áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan
trong khi GATT 1994 khuyến khích áp dụng các biện pháp thuế quan và tiến tới hạn chế việc áp
dụng biện pháp phi thuế quan.
3 / Vai trò của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Thứ nhất, các biện pháp tự vệ nhằm giảm nhẹ hay trợ giúp khắc phục thiệt hại gây ra do
việc nhập khẩu hàng hoá tăng một cách bất thường, không thể lường trước vào thị trường
nội địa.
Thứ hai: các biện pháp tự vệ góp phần tăng cường, khuyến khích tính cạnh tranh thông qua
việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất chứ không phải vì mục đích ưu đãi, bảo hộ ngành sản xuất
trong nước hay hạn chế sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài trong thị trường nội địa.
Bên cạnh những mặt tích cực khi áp dụng các biện pháp tự vệ còn tồn tại những hạn chế.
Đó là việc bảo hộ một cách tràn lan hàng hoá nội địa sẽ dẫn tới sự ỷ lại của các nhà sản xuất trong
nưóc, dẫn tới việc mất khả năng cạnh tranh, không tận dụng tốt các nguồn lực sẵn có và sự hao
phí tài nguyên là không tránh khỏi. Hạn chế thứ hai, như trên đã phân tích, đó là việc nước áp
dụng biện pháp tự vệ phải hứng chịu sự trả đũa của các nước khác và là một trong những nguyên
nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thương mại không cần thiết, gây bất lợi cho các bên.
5
PHẦN II: NỘI DUNG CÁC ĐIỀU KHOẢN TỰ VỆ
TRONG WTO
Điều XIX của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại cho phép một thành viên GATT
áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ ngành công nghiệp nội địa khỏi sự gia tăng đột biến của bất kỳ
sản phẩm nhập khẩu nào mà gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công
nghiệp đó.
Hiệp định về các biện pháp tự vệ (Agreement on Safeguards – SG Agreement) bao gồm 14 điều,
và một phụ lục. Hiệp định là một bước đột phá mới trong việc ngăn chặn các biện pháp “vùng
6
xám” (grey area measures) và đưa ra các chi tiết về điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ, chiếu theo
điều XIX của GATT. Hiệp định là một bước đột phá mới trong việc hình thành các điều khoản
chi tiết đối với các hành động tự vệ.
1 / Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng
minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
* Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
* Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại
hoặc đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng; và
* Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe
doạ thiệt hại nói trên.
Một điều kiện chung là tình trạng nói trên phải là hệ quả của việc thực hiện các cam kết trong
WTO của các thành viên mà họ không thể thấy hoặc lường trước được khi đưa ra cam kết.
Song song với các điều kiện chung này, một số nước khi gia nhập WTO phải đưa ra những cam
kết riêng liên quan đến biện pháp tự vệ. Trường hợp của Việt Nam, không có ràng buộc hay bảo
lưu nào lớn về các biện pháp tự vệ này, do đó việc áp dụng biện pháp tự vệ ở Việt Nam đối với
hàng hóa nước ngoài, nếu có, sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO về vấn đề này.
Hiệp định tự vệ đã đưa ra chi tiết thế nào là “tổn hại nghiêm trọng” và những nhân tố cần được
xem xét khi quyết định ảnh hưởng của nhập khẩu.
Một trong các điều kiện để có thể áp dụng biện pháp tự vệ là phải điều tra chứng minh được rằng
ngành sản xuất nội địa phải chịu thiệt hại nghiêm trọng từ việc hàng nhập khẩu tăng ồ ạt. Cụ thể:
• Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới hai dạng: thiệt hại thực tế, hoặc nguy
cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);
• Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức nghiêm trọng (tức là ở mức cao hơn so với
thiệt hại đáng kể trong trường hợp của các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp);
• Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân tích tất cả các yếu
tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa (ví dụ tỷ lệ và mức tăng lượng nhập
khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu, thay đổi về doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)
Trong cuộc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ, việc chứng minh thiệt hại nghiêm trọng chủ yếu
thuộc trách nhiệm của ngành sản xuất nội địa liên quan. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của mình,
ngành sản xuất nội địa cần có sự chuẩn bị kỹ về các số liệu, tập hợp trong một thời gian tương đối
dài để có đủ dữ liệu chứng minh.
7
Ngoài ra, để áp dụng biện pháp tự vệ, “sự gia tăng nhập khẩu đột biến” phải đáp ứng các điều
kiện sau:
Sự gia tăng này là gia tăng tuyệt đối (ví dụ lượng nhập khẩu tăng gấp 2 lần) hoặc tương đối
so với sản xuất trong nước (ví dụ lượng hàng nhập khẩu hầu như không tăng nhưng cùng
thời điểm đó lượng hàng sản xuất trong nước lại giảm mạnh);
Sự gia tăng này phải mang tính đột biến (diễn ra đột ngột, nhanh và tức thời)
Điều kiện chung: sự gia tăng nhập khẩu này phải thuộc diện “không dự đoán trước được” vào
thời điểm nước nhập khẩu đàm phán tham gia Hiệp định tự vệ.
Một số yếu tố lưu ý khi xác định “gia tăng nhập khẩu đột biến”
Sự gia tăng về trị giá nhập khẩu không phải là yếu tố bắt buộc điều tra trong vụ việc tự vệ.
Sự gia tăng lượng nhập khẩu cần được xem xét theo diễn tiến trong suốt giai đoạn điều tra
chứ không chỉ đơn thuần là so sánh lượng nhập khẩu thời điểm đầu và cuối cuộc điều tra.
Sự thay đổi về xu hướng thời trang và ảnh hưởng của nó đến cạnh tranh được xem là một
việc không thể dự đoán trước bởi các nhà đàm phán.
2/ Quy định về việc áp dụng biện pháp tự vệ
Biện pháp tự vệ sẽ chỉ được áp dụng trong chừng mực cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục tổn
hại nghiêm trọng và để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh. Nếu biện pháp hạn chế định lượng được
áp dụng, thì những biện pháp này sẽ không làm giảm số lượng nhập khẩu dưới mức nhập khẩu
bình quân của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê trừ khi có chứng cứ rõ ràng rằng cần
có một mức khác để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng.
2.1 / Các biện pháp tự vệ
- Thuế quan: Ngoài các điều kiện chung để áp dụng biện pháp tự vệ, coi đó là biện pháp bảo vệ
nền công nghiệp trong nước phát triển, thì hiệp định về tự vệ không có hướng dẫn cụ thể thực
hiện biện pháp cân bằng thông qua việc tăng đột biến thuế suất như thế nào.
- Hạn ngạch nhập khẩu: Mức hạn ngạch nhập khẩu không được thấp hơn mức nhập khẩu bình
quân của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê trừ khi có chứng cứ rõ ràng rằng cần có một
mức khác để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng. Việc chia hạn ngạch cho các quốc
gia xuất khẩu cũng dựa trên tình hình trước đây.
Nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ không nhất thiết phải có giải trình rõ ràng và cụ thể về
việc tại sao biện pháp được lựa chọn (về phạm vi, hình thức, mức độ) là cần thiết để ngăn chặn
hoặc bù đắp các thiệt hại và để ngành sản xuất nội địa tự điều chỉnh
8
Một biện pháp tự vệ được áp dụng mà không tuân thủ đầy đủ 03 điều kiện để áp dụng biện pháp
tự vệ sẽ đương nhiên bị coi là “vượt quá mức cần thiết”
2.2 / Thời hạn của các biện pháp tự vệ
Thời gian áp dụng biện pháp tự vệ sẽ không vượt quá 4 năm mặc dù thời hạn này có thể được kéo
dài tối đa đến 8 năm, tùy thuộc vào sự xác định mức độ cần thiết gia hạn của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và nếu có chứng cứ rõ ràng rằng ngành công nghiệp này đang được điều chỉnh.
Bất kỳ biện pháp nào được áp dụng trong khoảng thời gian trên 1 năm sẽ từng bước được nới
lỏng trong suốt thời gian áp dụng.
Không một biện pháp tự vệ nào được áp dụng trở lại đối với một sản phẩm đã từng bị áp dụng
biện pháp này trong thời hạn bằng thời hạn mà biện pháp đó đã được áp dụng trước đây với điều
kiện là thời hạn không áp dụng phải ít nhất là 2 năm.
Có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với việc nhập khẩu một sản phẩm trong thời hạn 180
ngày hoặc ít hơn nếu ít nhất 1 năm sau khi biện pháp tự vệ này được áp dụng đối với sản phẩm
đó, và nếu biện pháp tự vệ này chưa được áp dụng hơn hai lần cho cùng một sản phẩm trong
vòng 5 năm ngay trước ngày áp dụng biện pháp này.
Những biện pháp có thời hạn dài hơn 3 năm phải được xem xét lại vòa giữa kỳ. Và tùy thuộc vào
sự thay đổi của tình hình mà thành viên đang sử dụng biện pháp tự vệ phải rút bỏ hoặc nới lỏng
dần các biện pháp.
2.3 / Ngoại lệ đối với các các nước thành viên đang phát triển
Các biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng đối với sản phẩm có xuất xứ từ các nước thành viên
đang phát triển nếu thị phần sản phẩm liên quan không vượt quá 3%, và với điều kiện là tổng thị
phần nhập khẩu từ các Thành viên đang phát triển có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%
không vượt quá 9% tổng kim ngạch nhập khẩu sản phẩm liên quan.
Một nước thành viên đang phát triển có quyền kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ trong
thời hạn không quá 2 năm sau khi hết thời hạn tối đa bình thường.
Một nước thành viên đang phát triển có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với một sản phẩm
đã từng bị áp dụng biện pháp này trước đó sau thời gian bằng một nửa thời gian mà biện pháp này
được áp dụng trước đây, với điều kiện là thời gian không áp dụng ít nhất là 2 năm.
2.4 / Điều khoản tự vệ đặc biệt dành cho Nông Nghiệp
Hiệp định về Nông nghiệp có qui định đặc biệt (Điều 5) về tự vệ. Điều khoản tự vệ đặc biệt đối
với Nông nghiệp khác so với tự vệ thông thường, cụ thể là:
9
Thuế tự vệ cao hơn có thể được áp dụng tự động khi kim ngạch nhập khẩu tăng trên mức
nhất định hoặc nếu giá giảm dưới mức nhất định.
Không cần phải giải trình thiệt hại nghiêm trọng gây ra cho ngành công nghiệp trong nước.
Tự vệ đặc biệt trong Nông nghiệp được áp dụng đối với những sản phẩm đã được đánh thuế với
số lượng dưới 20% của khối lượng hàng Nông nghiệp. Nhưng nó không được áp dụng đối với
nhập khẩu trong quota tính thuế. Thực tế, tự vệ đặc biệt trong Nông nghiệp chỉ sử dụng trong một
vài trường hợp.
Các đề xuất bắt nguồn từ việc tiếp tục các qui định hiện tại tiến tới xoá bỏ hoặc sửa đổi nhằm
ngăn ngừa sản phẩm từ các nước đang phát triển. Một số nước đang phát triển đã đề xuất chỉ có
họ mới được phép sử dụng biện pháp tự vệ đặc biệt còn các nước phát triển không được phép làm
như vậy.
Nhật bản và Hàn quốc đề nghị hình thức mới của tự vệ đặc biệt có thể áp dụng đối với
sản phẩm mau hỏng và theo mùa vụ nhưng nhiều nước đã phản đối việc này.
3 / Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
3.1 / Thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Khác với trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO không có nhiều quy
định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định về Biện pháp
tự vệ của WTO có đưa ra một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải tuân thủ, ví
dụ:
• Đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông báo
công khai; Báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…)
• Đảm bảo quyền tố tụng của các bên (các bên liên quan phải được đảm bảo cơ hội trình
bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các chứng cứ, lập luận của đối phương);
• Đảm bảo bí mật thông tin (đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trình
với tính chất là thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã trình
thông tin);
• Các điều kiện về biệ