Nhiều nhà triết học và xã hội học của giai cấp bóc lột đã không đưa ra được chuẩn mực khoa học để phân biệt sự khác nhau về giai cấp. Mà họ lại cho rằng sự khác nhau về giai cấp là do sự khác nhau về chủng tộc, màu da, về tài năng cá nhân, Tất cả những cái đó đều là ngụy biện, giả tạo, che giấu bộ mặt của giai cấp thống trị bóc lột.
Rồi thì cũng có nhiều nhà kinh tế học tư sản như: Chie, Ghiđô, Minhê, của xã hội học tư sản hiện đại cũng đã phát kiến và luận giải về giai cấp nhưng xét đến cùng cũng chỉ là sự giải thích mơ hồ về giai cấp và lãng tránh các vấn đề cơ bản về giai cấp và quan hệ giai cấp.
Và chỉ có đến với triết học Mác-xít, đứng trên quan điểm duy vật về lịch sử, gắn liền giai cấp với phương thức sản xuất với quan hệ sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định thì mới hiểu rõ được giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” của Lênin đã định nghĩa giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật qui định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Từ định nghĩa trên cho thấy, khi nói đến giai cấp là nói đến hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định do chế độ đó sản sinh ra, giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử.
17 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 7114 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tổng quan về giai cấp và đấu tranh giai cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1:
TỔNG QUAN VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Có thể nói, giai cấp và đấu tranh giai cấp là một mảng lớn trong lý luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác – Lênin, không những thế các vấn đề về giai cấp và đấu tranh giai cấp luôn là đề tài nóng bỏng của mọi thời đại.
1.1. Khái niệm và đặc trưng của giai cấp:
Nhiều nhà triết học và xã hội học của giai cấp bóc lột đã không đưa ra được chuẩn mực khoa học để phân biệt sự khác nhau về giai cấp. Mà họ lại cho rằng sự khác nhau về giai cấp là do sự khác nhau về chủng tộc, màu da, về tài năng cá nhân,… Tất cả những cái đó đều là ngụy biện, giả tạo, che giấu bộ mặt của giai cấp thống trị bóc lột.
Rồi thì cũng có nhiều nhà kinh tế học tư sản như: Chie, Ghiđô, Minhê,… của xã hội học tư sản hiện đại cũng đã phát kiến và luận giải về giai cấp nhưng xét đến cùng cũng chỉ là sự giải thích mơ hồ về giai cấp và lãng tránh các vấn đề cơ bản về giai cấp và quan hệ giai cấp.
Và chỉ có đến với triết học Mác-xít, đứng trên quan điểm duy vật về lịch sử, gắn liền giai cấp với phương thức sản xuất với quan hệ sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định thì mới hiểu rõ được giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” của Lênin đã định nghĩa giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật qui định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Từ định nghĩa trên cho thấy, khi nói đến giai cấp là nói đến hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định do chế độ đó sản sinh ra, giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử.
Để hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể, phải đặt nó trong hệ thống, trong mối quan hệ với giai cấp đối lập. Bản chất của giai cấp thể hiện ở sự khác nhau về địa vị giữa các tập đoàn người trong hệ thống kinh tế – xã hội nhất định. Sự tồn tại của giai cấp gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển sản xuất vật chất xã hội, gắn liền với những phương thức sản xuất nhất định. Trong một hệ thống kinh tế – xã hội có giai cấp, nếu tập đoàn người này nắm địa vị thống trị thì tập đoàn người khác ở địa vị bị thống trị. Sự khác nhau về địa vị trong hệ thống kinh tế – xã hội là đặc trưng chung nhất của giai cấp.
Làm thế nào để nhận biết một xã hội nào đó có sự phân hóa dân cư thành giai cấp hay không? Và một nhóm người nào đó thuộc giai cấp này hay giai cấp khác? Cần phải căn cứ vào các đặc trưng của hiện tượng dân cư bị phân hóa thành giai cấp. Căn cứ vào cấu trúc của quyền lực kinh tế và mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị ta có thể khái quát sự khác nhau giữa các giai cấp thành 4 đặc trưng cơ bản sau:
- Giai cấp là tập đoàn người khác nhau trong quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất.
Đây là sự khác nhau cơ bản nhất, sự chiếm hữu tư liệu sản xuất của giai cấp thống trị được pháp luật và nhà nước bảo vệ. Trong một xã hội mà có sự phân chia giai cấp thì tất cả các tư liệu sản xuất như đất đai, tài nguyên thiên nhiên đều thuộc về quyền sở hữu của người này hay người khác. Chẳng hạn như chủ nô, địa chủ phong kiến (trong chế độ phong kiến), tư bản (trong chế độ tư bản chủ nghĩa) là những tập đoàn người giữ vị trí thống trị trong hệ thống kinh tế – xã hội mà họ làm đại biểu bởi vì họ nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội (phương tiện, điều kiện vật chất quan trọng) để chi phối lao động của tập đoàn người không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Còn những tập đoàn người này (nô lệ, nông nô, vô sản,…) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trị.
- Tập đoàn người khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất và quản lý lao động xã hội.
Trong xã hội có phân chia giai cấp thì tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu sản xuất của xã hội thì đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy, điều khiển quá trình sản xuất, lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế, trong đó có quyền sai khiến, tuyển dụng, sa thải lao động làm thuê bất cứ lúc nào.
Ví dụ: Trong xã hội TBCN, nhà tư bản giữ toàn bộ chức năng quản lý công nghiệp và các ngành kinh tế khác, còn những người công nhân là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất thì luôn luôn phải chịu sự giám sát, điều khiển và chỉ huy tổ chức của giai cấp tư sản (hay các nhà tư bản).
- Giai cấp là các tập đoàn người khác nhau trong quan hệ của họ đối với của cải được sản xuất ra.
Trong xã hội mà có giai cấp thì giai cấp nào chiếm giữ toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội thì có quyền định đoạt tỷ lệ phân phối thu nhập. Chế độ phân phối sản phẩm trong các xã hội có giai cấp đối kháng là chế độ phân phối bất công vì nó đảm bảo cho giai cấp thống trị bóc lột sức lao động của người công nhân hay chiếm toàn bộ giá trị thặng dư do người công nhân tạo ra. Giai cấp này không trực tiếp lao động sản xuất ra của cải vật chất nhưng lại thâu tóm phần lớn của cải vật chất của xã hội, còn giai cấp lao động cực khổ chỉ nhận một phần ít của cải vật chất dưới hình thức này hay hình thức khác nhưng chỉ đủ để họ tái sản xuất ra sức lao động. Quay trở về với thời phong kiến, cuộc sống của người dân cũng chẳng có gì tốt đẹp hơn (mặc dù trình độ khai thác và bóc lột sức lao động của người lao động chưa cao và tinh vi bằng chế độ TBCN), phần lớn nông nô và nông dân làm ra sản phẩm đều phải nộp tô cho địa chủ, vua quan, thậm chí có trường hợp chiếm đến 80 – 90% sản phẩm mà họ làm ra.
Bước sang chế độ TBCN với trình độ bóc lột tinh vi hơn, đại tư sản đã dùng nhiều biện pháp như sản xuất giá trị thặng dư tương đối, tuyệt đối với siêu ngạch để vắt kiệt sức của người công nhân. Khác với xã hội phong kiến, chiếm hữu nô lệ, trong xã hội TBCN, người lao động có quyền bán hay không bán sức lao động cho nhà tư bản, nhưng các nhà tư bản lại độc chiếm hết tư liệu sản xuất của xã hội nên không bán thì họ không thể sống. Nguyên nhân là sức lao động của con người tạo ra giá trị vô cùng lớn đối với nhà tư bản. Nếu sản xuất càng hiện đại, lao động làm thuê có trình độ khoa học ngày càng cao, tức càng tạo ra nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Nhưng dù giá trị thặng dư do họ tạo ra nhiều đến đâu thì tiền lương mà nhà tư bản trả cho họ chỉ đủ để chi tiêu ở mức tối thiểu để có thể tái tạo sức lao động. Ngày nay, giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức sống cao hơn mức sống của những người lao động trước đây. Tuy nhiên sự nâng cao mức sống của công nhân không tương xứng với sự tăng lên nhanh chóng của năng suất lao động. Tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư vẫn không ngừng tăng lên. Trong xã hội có giai cấp thì mức sống của người lao động có thể thay đổi theo điều kiện hoàn cảnh nhưng phải hợp kết quả lao động của mình do giai cấp thống trị bóc lột dưới hình thức này hay hình thức khác.
- Giai cấp là tập đoàn người khác nhau về quyền lực chính trị.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm quyền lực về kinh tế thì giai cấp ấy sẽ tiến hành tổ chức nhà nước, sử dụng nhà nước như một công cụ để thực hiện quyền lực chính trị nhằm bảo vệ cho lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị. Chính vì vậy mà trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có một giai cấp đóng vai trò chuyên chính thống trị các giai cấp còn lại.
Ví dụ: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đóng vai trò thống trị; trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ giữ vai trò thống trị và trong xã hội TBCN, giai cấp tư sản nắm quyền thống trị các giai cấp khác trong xã hội.
Như vậy, chính sự khác biệt trên mà tập đoàn này chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, đây cũng là bản chất của quan hệ giai cấp đối kháng.
Nói đến giai cấp, chúng ta không thể nói đến tập đoàn người riêng lẻ mà là một hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế – xã hội nhất định, do chế độ ấy sản sinh ra.
Từ phân tích trên ta thấy rằng, giai cấp không phải là một phạm trù xã hội thông thường mà là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử. Nó không phải là sản phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.
Mỗi hệ thống giai cấp tương ứng với một hệ thống sản xuất xã hội, về bản chất là thể thống nhất của các mặt đối lập. Do đó, sẽ không thể hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể nếu không đặt nó trong hệ thống, tức là trong mối quan hệ với các giai cấp đối lập khác.
Chẳng hạn, không thể hiểu giai cấp tư sản là gì nếu không xem xét trong mối quan hệ với giai cấp vô sản và ngược lại.
Nói đến giai cấp là nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong hệ thống kinh tế – xã hội nhất định, trong đó có tập đoàn người thống trị và tập đoàn người bị trị. Bên cạnh tập đoàn người thống trị và bị trị kia bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp trung gian không giữ một địa vị cơ bản nào trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên bị phân hóa, nhân tố chi phối sự phân hóa của các tầng lớp trung gian là lợi ích. Các tầng lớp trung gian ngã về phía giai cấp thống trị hay bị trị là tuỳ thuộc vào lợi ích của họ.
1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp:
Xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn tại giai cấp. Và Mác là người đầu tiên chứng minh rằng “Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự phân chia xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế. Thật vậy, điều đó đã được chứng minh qua các chế độ xã hội khác nhau.
Chẳng hạn, trong chế độ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động thô sơ bằng đá, gậy gộc, cung tên,… do vậy con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm thừa. Hơn nữa, lúc này cũng vì lợi ích mà họ sống cùng nhau, kiếm ăn cùng nhau để chống lại thiên tai, thú dữ,… họ sống giúp đỡ, bình đẳng với nhau, tương tựa vào nhau mà sống. Không những nguyên nhân trên mà trong thời kỳ công xã nguyên thủy vẫn chưa có giai cấp.
Đến cuối xã hội nguyên thủy, công cụ kim loại ra đời làm cho năng suất lao động tăng lên, con người có thể sản xuất số lượng lớn sản phẩm vượt nhu cầu tối thiểu để tồn tại, dẫn đến sản phẩm dư thừa. Lúc này họ nhận ra rằng làm ăn riêng thì có lợi hơn là làm ăn chung như trước kia, sản xuất cá thể của từng gia đình có hiệu quả hơn là sản xuất tập thể. Và thế là những người có chức có quyền trong thị tộc, bộ lạc đã nảy lòng tham chiếm toàn bộ công cụ sản xuất, chế độ tư hữu ra đời. Và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp hình thành giai cấp. Thật vậy, những người nắm trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội sẽ nắm luôn tất cả các quyền lực về kinh tế, chính trị,… trong khi những người không có tư liệu sản xuất, muốn sống phải bán sức lao động cho những người kia và chấp nhận bị bóc lột sức lao động và bị chiếm đoạt toàn bộ giá trị thăng dư do họ làm ra và lúc này giai cấp xuất hiện. Đó là giai cấp chiếm toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội trở thành giai cấp thống trị, bóc lột, trong khi những người không có tư liệu sản xuất thì trở thành giai cấp bị áp bức, bóc lột.
Vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sư ra đời của giai cấp. Sự tồn tại của giai cấp đối kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề khiến chọ sự thủ tiêu chế độ tư hữu, các cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là logic khách quan của tiến trình phát triển lịch sử.
Nếu nhìn kỹ lại thì ta thấy nguyên nhân sâu xa của sự phân chia xã hội thành giai cấp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lớn về lao động xã hội. Còn nguyên nhân kinh tế trực tiếp phân chia xã hội thành giai cấp đó chính là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy mà Các Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng, nguyên nhân phân chia xã hội thành giai cấp cũng như nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của hệ thống giai cấp chính là nguyên nhân kinh tế chứ không phải là nguyên nhân chính trị hay tư tưởng. Mặt khác, Ph. Ăngghen cũng nhấn mạnh chiến tranh cũng góp phần vào việc phân chia giai cấp như những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo ngược đã góp phần thúc đẩy quá trình phân hóa giai cấp nhưng bản thân bạo lực chính trị không tạo ra chế độ tư hữu và giai cấp. Như vậy, sự xuất hiện và mất đi của những giai cấp cụ thể đều dựa trên lợi ích kinh tế. Vì vậy, muốn mất đi giai cấp thì không có gì khác là bảo vệ lợi ích cho tất cả các cá nhân trong xã hội.
Tổng kết lại thì sự phân chia xã hội thành giai cấp diễn ra torng lịch sử bằng hai con đường:
- Những người có chức có quyền trong bộ lạc chiếm hữu tài sản của công xã là của riêng và trở nên giàu có, tiến hành bóc lột nô lệ, tù binh qua chiến tranh.
- Sự phân hóa trong bộ lạc dẫn đến các thành viên trong bộ lạc mất hết tư liệu sản xuất, phụ thuộc vào những người chiếm đoạt tư liệu sản xuất (giai cấp thống trị) họ tham gia ngày càng đông đảo vào hàng ngũ của những người nô lệ.
1.3. Kết cấu giai cấp:
Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay đều luôn tồn tại hai giai cấp cơ bản đối kháng gắn liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội đó. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ; địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến; tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp của mỗi chế độ kinh tế – xã hội vừa là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội vừa là giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Trong đó, giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế, xã hội đang tồn tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản đó, thì mỗi kết cấu giai cấp xã hội còn có giai cấp không cơ bản (ví dụ là tập đoàn giai cấp tàn dư của phương thức sản xuất cũ hay là tập đoàn giai cấp là mầm móng của phương thức sản xuất tương lai, những tập đoàn giai cấp này chỉ là mầm móng hay là mầm móng tương lai của phương thức sản xuất đang tồn tại, chứ không phải là giai cấp cơ bản.
Như đã đề cập ở trên thì còn có các tầng lớp trung gian, là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hóa xã hội không ngừng diễn ra trong xã hội. Nó không giữ địa vị cơ bản trong phương thức sản xuất đang tồn tại và rất dễ bị phân hóa, gia nhập vào giai cấp thống trị hoặc rơi vào các địa vị giai cấp bị trị. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản.
Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng về kinh tế – xã hội – chính trị – văn hóa, đó là tầng lớp tri thức. Một câu hỏi đặt ra, vậy tri thức có phải là một giai cấp hay một tầng lớp đặc biệt đứng ngoài giai cấp. Tri thức là khái niệm dùng để chỉ những người làm nghề thuộc về lao động trí óc chứ không phải là khái niệm dùng để chỉ giai cấp. Bản thân một tri thức nào đó cũng xuất thân từ một giai cấp nhất định. Đó chỉ là xuất thân của một tri thức, chứ tri thức chỉ là một tầng lớp chứ chưa được gọi là giai cấp vì nó không gắn với một phương thức sản xuất nào.
1.4. Đấu tranh giai cấp:
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giai cấp là quan hệ trái ngược nhau về địa vị, lợi ích cả kinh tế lẫn tinh thần. Quan hệ đó dẫn đến mâu thuẩn giữa thống trị và bị trị; giữa áp bức và bị áp bức; giữa bóc lột và bị bóc lột. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động của họ mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội, tinh thần. Vì có áp bức giai cấp nên tất yếu có đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn đối kháng giai cấp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đấu tranh giai cấp. Chính vì vậy mà Lênin đã định nghĩa đấu tranh giai cấp là: “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám; cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
Do vậy, thực chất của cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích của giai cấp bị thống trị, bị bóc lột, bị áp bức, chống lại sự bóc lột, áp bức của giai cấp thống trị. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý để tránh hiểu nhầm rằng, giai cấp bị trị, bị bóc lột chống lại giai cấp thống trị không phải là chống lại sự thống trị của giai cấp thống trị mà chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị. Còn việc giai cấp nào nắm giữ địa vị thống trị đó là do lịch sử quyết định. Chẳng hạn, giai cấp công nhân tuy giữ địa vị thống trị nhưng không hề áp bức hay bóc lột giai cấp khác trong xã hội.
Không có cái gì tự nhiên mà có cả, nếu mâu thuẩn đối kháng giai cấp là nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp thì nguyên nhân khách quan đó là sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội đó là mâu thuẫn giai cấp lao động bị thống trị, bị áp bức với giai cấp thống trị, bóc lột, áp bức. Bởi vì giai cấp lao động luôn là lực lượng sản xuất chính của xã hội nên nó đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, hiện đại. Trong khi giai cấp thống trị, bóc lột thì lại dùng sức mạnh kinh tế, chính trị, tư tưởng, kể cả bạo lực để bảo vệ chế độ đương thời, nên nó luôn đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
Các giai cấp bóc lột của các hình thái xã hội khác nhau cũng có thể đối kháng về lợi ích như giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến. Nhưng trước sự phản kháng của giai cấp bị bóc lột, chúng dễ dàng liên kết với nhau. Do đó, thực chất của đối kháng giai cấp là đối kháng lợi ích giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột.
Đấu tranh giai cấp không chỉ đơn thuần là giải quyết các mâu thuẫn đối kháng giữa các tầng lớp, giai cấp thống trị và bị trị trong xã hội mà đấu tranh giai cấp lại có một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, chính là động lực phát triển của xã hội có giai cấp.
1.5. Đấu tranh giai cấp – một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp:
Vai trò động lực, thúc đẩy sự phát triển xã hội có giai cấp trước hết thể hiện ở chỗ thông qua đấu tranh giai cấp, sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mang trình độ xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu được giải quyết, lúc đó tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng sức sản xuất xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị, bóc lột, giai cấp đại biểu cho những lợi ích gắn liền với quan hệ sản xuất lỗi thời nhưng còn đang thống trị. Mâu thuẫn đó được giải quyết bằng cuộc đấu tranh cách mạng mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Cuộc cách mạng này sẽ thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, mở ra địa bàn mới cho sản xuất xã hội phát triển.
Đấu tranh giai cấp không những là động lực phát triển của xã hội có giai cấp trong thời kỳ cách mạng xã hội mà cả trong thời kỳ hoà bình (thời kỳ mà quan hệ sản xuất chưa mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất). Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy: “kể từ 1825 sự phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh giữa các chủ xí nghiệp và công nhân”. Sự chống đối của công nhân ngăn chặn chủ tư bản tăng lợi nhuận bằng con đường kéo dài ngày lao động, buộc họ phải chú ý sử dụng kỹ thuật hoàn thiện hơn để rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhờ kết quả của việc nâng cao năng suất lao động. Những cải cách tiến bộ nhất ở mỗi nước nào đó là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong nước và áp lực của cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước trẹn thế giới.
Đấu tranh giai cấp chẳng những có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã hội phản động mà còn có tác dụng cải tạo bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, g