Mọi sự vật, sự việc luôn luôn có hai mặt của nó: mặt tốt và mặt xấu. Tài sản cũng vậy, ngoài ý nghĩa đáp ứng nhu cầu, lợi ích về mặt vật chất cho con người thì tài sản còn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất định mà chính con người cũng có thể bị thiệt hại do chính tài sản mang lại, dù có ý thức ngăn chặn, phòng ngừa đến mấy con người cũng khó có thể kiểm soát được. Xuất phát từ lý do này, dưới góc độ khoa học pháp lý, nguồn nguy hiểm cao độ đã được biết đến với nhận định là sự tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại. Trên cơ sở đánh giá sự tiềm ẩn nguy cơ này với sự nhận định mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, luật dân sự quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (một trong các trường hợp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)
22 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2757 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mọi sự vật, sự việc luôn luôn có hai mặt của nó: mặt tốt và mặt xấu. Tài sản cũng vậy, ngoài ý nghĩa đáp ứng nhu cầu, lợi ích về mặt vật chất cho con người thì tài sản còn tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro nhất định mà chính con người cũng có thể bị thiệt hại do chính tài sản mang lại, dù có ý thức ngăn chặn, phòng ngừa đến mấy con người cũng khó có thể kiểm soát được. Xuất phát từ lý do này, dưới góc độ khoa học pháp lý, nguồn nguy hiểm cao độ đã được biết đến với nhận định là sự tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại. Trên cơ sở đánh giá sự tiềm ẩn nguy cơ này với sự nhận định mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ, luật dân sự quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (một trong các trường hợp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG.
I. Khái niệm.
Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ thì chủ thể gây thiệt hại có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Bồi thường trách nhiệm ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại.
Điều 604 BLDS 2005 quy định:
“ 1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Theo quy định tại Điều 604 BLDS thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, có những trường hợp đặc biệt người gây thiệt hại có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại kể cả khi họ không có lỗi.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trách nhiệm pháp lý đặc biệt, phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều 604 BLDS năm 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Có thiệt hại xảy ra;
- Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật;
- Người gây thiệt hại có lỗi;
- Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ của người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự, trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác mà gây ra thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Thiệt hại bao gồm những thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Việc xác định thiệt hại về vật chất tương đối cụ thể, rõ ràng nhưng việc xác định thiệt hại về tinh thần là vấn đề hết sức khó khăn.
II. Đặc điểm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm mang tính chất tài sản, dựa vào sự cưỡng chế của Nhà nước hoặc thỏa thuận của các bên chủ thể. Đó là loại trách nhiệm tài sản nhằm khôi phục thiệt hại của người bị thiệt hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Hậu quả pháp lý của việc áp dụng này luôn mang đến những bất lợi về tài sản do người gây ra thiệt hại để bù đắp những tổn thất mà họ gây ra cho chủ thể khác.
Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể là những công dân hay các pháp nhân. Người bị thiệt hại và người ra gây thiệt hại là các bên tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường có thể là liên đới, riêng rẽ hoặc theo phần tùy theo điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng bị thiệt hại.
III. Ý nghĩa.
Việc pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng. Khi một người gây thiệt hại thì họ phải có trách nhiệm khắc phục những hậu quả mà mình đã gây ra cho người bị thiệt hại. Những quy định của pháp luật sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể bị xâm hại.
Khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác thì đồng nghĩa các lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị gây thiệt hại sẽ bị xâm hại. Đó có thể là những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần. Những thiệt hại dù ít hay nhiều cũng đều ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của các chủ thể bị thiệt hại. Do đó, pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm khắc phục những hậu quả về tài sản, phục hồi lại tình trạng tài sản của người bị thiệt hại trong phạm vi, khả năng nhất định, bảo đảm lợi ích của người bị thiệt hại. Giải quyết việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là áp dụng một biện pháp trách nhiệm dân sự, được thể hiện trong một bản án dân sự hay một quyết định dân sự trong một bản án hình sự. Về nguyên tắc thì thiệt hại được bồi thường một cách toàn bộ và kịp thời. Như vậy, quyền và lợi ích của các chủ thể mới được bảo vệ.
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục cho mọi người về ý thức trách nhiệm tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
B. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA.
I. Cơ sở lý luận.
1. Nguồn nguy hiểm cao độ.
BLDS 2005 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ tại Điều 623. Trên cơ sở quy định của BLDS 2005, tòa án nhân dân Tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP, ngày 8/7/2006 hướng dẫn các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS 2005, trong đó có hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định” (khoản 1 Điều 623 BLDS 2005).
Như vậy, Điều 623, BLDS 2005 cũng như hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiêm cao độ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Qua quy định trên, ta có thể hiểu “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát một cách tuyệt đối” (trích Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Lê Đình Nghị (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009).
Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải được hiểu là chính sự hoạt động tự thân (tự tại) của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, mà không có tác động bởi hành vi có lỗi của con người. VD: tai nạn ô tô xảy ra do cấu tạo máy móc của xe; bình hóa chất bị nổ khi đang vận chuyển…
Theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005 thì có các loại nguồn nguy hiểm cao độ sau đây:
– Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: “Phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ gồm: xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy và các loại xe tương tự kể cả xe cơ giới dành cho người tàn tật…” (khoản 18, Điều 3, Luật Giao thông đường bộ 2008). Tuy nhiên, phương tiện giao thông vận tải cơ giới không chỉ giới hạn ở đường bộ mà còn có phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường sắt, đường thủy và đường hành không.
Tùy từng trường hợp cụ thể để xác định phương tiện giao thông vận tải cơ giới nào là nguồn nguy hiểm cao độ. Về vấn đề này pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ. Trên thực tế, có những loại phương tiện nằm ngoài “sự kiểm soát” của pháp luật khi quy định về “nguồn nguy hiểm cao độ”, chẳng hạn như xe đạp điện, xe Babetta, Java hay máy thi công, máy xúc, máy ủi… - có thể coi đây là những loại xe tương tự theo sự liệt kê tại khoản 18, Điều 3, Luật Giao thông đường bộ 2008.
Theo Bộ luật Hàng hải: “Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di động khác chuyên dùng hoạt động trên biển” (Điều 11, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005), tàu biển cũng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
Đối với phương tiện giao thông vận tải đường thủy nội thì tại khoản 7, Điều 3, Luật Giao thông đường thủy nội địa 2004 quy định: “phương tiện thủy nội địa (sau đây gọi là phương tiện) là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên đường thủy nội địa”.
Đối với tàu bay là phương tiện trong hoạt động vận chuyển hàng không thì: “Tàu bay là thiết bị được nâng giữ trong khí quyền nhờ tác động tương hỗ với không khí, bao gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí phản lại từ bề mặt trái đất”. (khoản 1, Điều 13, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006).
Đối với phương tiện giao thông vận tải đường sắt. Khoản 20, Điều 3, Luật Đường sắt 2005 quy định: “Phương tiện giao thông đường sắt là đầu máy, toa xe, toa xe động lực. phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt”. Tuy nhiên, nếu các phương tiện chuyên dùng thô sơ di chuyển trên đường sắt thì không coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
– Hệ thống tải điện: dây truyền dẫn điện, mô tơ, máy phát điện, cầu dao…; nhà máy công nghiệp như nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ; phương tiện giao thông vận tải cơ giới chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi nó “đang hoạt động”, điều đó có nghĩa là nếu nó đang ở trạng thái tĩnh thì không tạo nguy hiểm cho những người xung quanh. Hoạt động là “Vận động vận hành để thực hiện chức năng nào hoặc gây tác động vào đó: Máy móc hoạt động bình thường theo dõi hoạt động của cơn bão”. Như vậy, phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang “hoạt động” có nghĩa là có sự vận hành của các loại tài sản này.
Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Hoạt động của xe cơ giới có thể là hoạt động di chuyển (cơ học hoặc điều khiển) hoặc không di chuyển nhưng thiết bị đang được vận hành, VD: xe nổ máy nhưng chưa di chuyển.
Đối với hệ thống tải điện: Phải có dòng điện chạy qua.
Đối với nhà máy công nghiệp: Phải đang trong quá trình vận hành, sản xuất.
– Vũ khí: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, công cụ hỗ trợ…
– Chất cháy, chất nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn… dễ gây ra cháy nổ. Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc với oxi trong không khí, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ cao hoặc không cao (diêm, photpho, lưu huỳnh, xăng dầu…).
Chất nổ với khả năng gây nổ mạnh, nhanh tỏa nhiệt và ánh sáng (thuốc nổ, thuốc pháo, thuốc súng…).
– Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng của con người, động vật, cũng như đối với môi trường xung quanh; các chất có thể gây hư hại, bệnh, hoặc tử vong cho các cơ thể, thường bằng các phản ứng hóa học hoặc các hoạt tính khác trên phạm vi phân tử, khi một số lượng vừa đủ được cơ thể sinh vật hấp thụ vào (VD: các chất độc bảng A như Aconitin và các loại muối của nó, kẽm photpho, nicotin…).
– Chất phóng xạ là “chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ riêng lớn hơn 70KBO/KG. Chất phóng xạ là nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị không bền của các nguyên tố hóa học (urani, radi…), có khả năng phát ra những chùm tia phóng xạ không nhìn thấy gây bệnh hoặc gây nhiễm xạ đối với người, động vật và môi trường sống.
– Thú dữ là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, lớn, rất dữ, có thể làm hại người. VD: hổ, báo, sư tử, gấu… Cẩn phân biệt giữa vật nuôi gây thiệt hại trong trường hợp nó hung dữ (VD: chó, mèo, vật nuôi khác bị bệnh dại cắn người…) với thiệt hại do thú dữ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nếu vật nuôi trong gia đình bị dại gây thiệt hại thì thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, còn thiệt hại do thú dữ gây ra sẽ thuộc trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Thú dữ gây thiệt hại để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải đang chịu sự quản lý của một chủ thể nhất định, nếu không có sự quản lý (ở môi trường tự nhiên, thiên nhiên hoang dã) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng không phát sinh, mặc dù tài sản này thuộc sở hữu của Nhà nước. VD: đàn voi dữ ở trong rừng bỗng nhiên vào làng có người dân sinh sống, gây thiệt hại về người và phá hại hoa màu, tài sản…
Với ý nghĩa luôn tiềm ẩn nguy cơ, khả năng gây thiệt hại cho con người và thế giới xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ nên BLDS quy định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật”. Quy định này đòi hỏi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, người được giao trông coi, chiếm hữu, sử dụng, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ phải tuyệt đối tuần thủ các quy định của pháp luật trong từng trường hợp, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Việc xác định người xung quanh và người không được coi là người xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ có ý nghĩa về mặt pháp lý trong việc xác định người bị nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại do sự hoạt động được hưởng bồi thường theo trách nhiệm dân sự hay theo chế độ bảo hiểm xã hội đối với công chức, viên chức bị nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ hoặc điều khiển, vận hành, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Nguyên tắc bồi thường khi bị thiệt hại là bị thiệt hại bao nhiêu thì được hưởng bồi thường bấy nhiêu và được hưởng toàn bộ khoản tiền bồi thường thiệt hại một lần và kịp thời.
Nếu người bị thiệt hại được xác định không phải người xung quanh nhưng lại bị chính nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì không được hưởng bồi thường theo trách nhiệm dân sự, mà được hưởng chế độ đối với công chức, viên chức bị nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại trong khi đang thực hiện nhiệm vụ liên quan đến việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Nhà nước có rất nhiều ưu đãi đối với trường hợp này, như xem xét về hưu sớm, hưởng trợ cấp suốt đời, hưởng chính sách của Nhà nước về thương binh, bệnh binh và trong trường hợp người này chết thì người thân được hưởng tiền tử tuất và các chế độ ưu đãi khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Điều 623 BLDS năm 2005 quy định:
“2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại”.
Quy định trên cho ta thấy phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra rất quan trọng trong việc xác định việc ai là người phải bồi thường.
– Nếu nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, kể cả trong trường hợp chủ sở hữu của nguồn nguy hiểm cao độ ko có lỗi.
– Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường thiệt hại trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Việc chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ được thực hiện theo quy định của pháp luật (Nhà nước giao cho các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước), hoặc theo hoạt động hợp pháp (cho thuê, mượn). Nếu nguồn nguy hiểm cao độ “giao” cho người sử dụng theo nghĩa lao động thì không được coi là “chuyển giao”. Người chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp (thuê, mượn) nguồn nguy hiểm cao độ là người “chuyển giao” cho người có nghĩa vụ lo động phải bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ đó gây ra. Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cho người khác, kể cả khi không có lỗi.
Nguyên tắc xác định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không áp dụng trong các trường hợp:
+ Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. VD: tàu đang chạy, nhưng có người vẫn lao vào để tự tử…
+ Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoặc người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, thì vẫn có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo trách nhiệm dân sự, nhưng người này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu chủ sở hữu hoặc người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi vô ý hoặc cố ý để nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, thì ngoài trách nhiệm dân sự là bồi thường toàn bộ thiệt hại, họ còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dù có lỗi hay không có lỗi đều có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cho người khác. Sự khác biệt giữa hành vi có lỗi hoặc không có lỗi khi chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác được thể hiện ở những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau.
– Vậy trong trường hợp khi nguồn nguy hiểm cao độ của chủ sở hữu bị trộm, cướp dưới các hình thức thuộc hành vi chiếm đoạt trái pháp luật thì ai sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại? Tại khoản 4, Điều 623 BLDS quy định về trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Theo quy định này, trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phát sinh khi nguồn nguy hiểm cao độ của chủ sở hữu bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại cho người thứ ba.
Nhưng trong trường hợp chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. Sự kiện này thường phát sinh trong xã hội và phổ biến ở trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ tuy đã biết hoặc trong hoàn cảnh có thể biết được một người không có quyền sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nhưng vẫn giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ và người này đã gây thiệt hại cho người thứ ba. Xác định trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để có căn cứ áp dụng các quy phạm pháp luật trong việc xác định chủ thể bồi thường thiệt hại. Trên thực tế luôn phát sinh và tồn tại những sự kiện mà theo đó nếu không có căn cứ để xác định, thì rất có thể còn có sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra với trách nhiệm dân sự do hành vi trái pháp luật gây ra. Đối với một phương tiện cơ giới đang hoạt động mà gây ra thiệt hại, thì trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường được xác định do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; ngược lại trong trường hợp khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó lại thuộc về người có hành vi trái pháp luật