Trên phạm vi toàn cầu cũng nhưtại Việt Nam, chất lượng môi trường
đang có những biến đổi theo chiều hướng bất lợi cho cuộc sống của con
người. Nguyên nhân chính của tình trạng này là sựtác động theo chiều hướng
tiêu cực của con người tới môi trường ngày càng gia tăng. Có nhiều cách
thức, biện pháp khác nhau được đưa ra nhằm ngăn chặn, hạn chếtình trạng
này, trong đó các biện pháp pháp lý với nội dung chính là quy định trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại gây nên do làm ô nhiễm, suy thoái môi trường
đang được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Luật Bảo vệmôi trường 2005
quy định 5 điều vềbồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường (Mục 2
Chương XIV, từ Điều 130 đến Điều 134)
. Đây là một bước tiến mới vềmặt
lập pháp. Người làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại phải bồi thường là sựcụ
thểhóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trảgiá” (PPP) đã được cộng đồng
quốc tếthừa nhận. Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này không chỉcó tác
dụng trừng phạt người đã gây ô nhiễm môi trường mà còn có tác dụng răn đe
các chủthểkhác trong quá trình khai thác, sửdụng các thành tốcủa môi trường
không được gây tổn hại cho môi trường. Nói khác đi, bồi thường thiệt hại môi
trường ngày càng được xem là một nội dung quan trọng của quản lý và bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên, các quy định vềbồi thường thiệt hại gây nên do làm ô
nhiễm, suy thoái môi trường hiện vẫn dừng ởmức chung chung, mang tính
nguyên tắc, chưa thểáp dụng trên thực tế. Thực tiễn giải quyết các vụkiện
đòi bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên trong
thời gian qua tại Việt Nam gặp không ít khó khăn do chưa có sựthống nhất về
Được Quốc hội Khoá XI, kỳhọp thứtám thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và sẽcó hiệu lực thi hành
kểtừngày 01 tháng 7 năm 2006.
Sau đây gọi tắt là bồi thường thiệt hại vềmôi trường
cách hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành vềvấn đềnày. Do
vậy, cần phải có thêm những nguyên cứu có tính chuyên sâu vềloại trách
nhiệm này, góp phần cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật vềtrách
nhiệm bồi thường thiệt hại vềmôi trường
194 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3013 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Tr¸ch nhiÖm båi th−êng thiÖt h¹i do
hµnh vi vi ph¹m ph¸p luËt m«i tr−êng g©y
nªn
T¹i viÖt nam
(ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG)
Bộ môn Luật Môi trường
HÀ NỘI - 2007
2
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG
GÂY NÊN TẠI VIỆT NAM
(ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG)
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Stt Họ và tên Học hàm –
học vị
Cơ quan công tác
1. Vũ Thu Hạnh Tiến sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Nguyễn Văn Phương Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
3. Vũ Duyên Thuỷ Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
4. Lưu Ngọc Tố Tâm Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
5. Đặng Hoàng Sơn Thạc sĩ Khoa Pháp luật Kinh tế
Trường Đại học Luật Hà Nội
6. Nguyễn Văn Tài Tiến sĩ Vụ Môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường
7. Dương Thanh An Thạc sĩ Cục Bảo vệ môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường
3
MỤC LỤC
Trang
1. Phần thứ nhất Báo cáo tổng quan
02
2. Phần thứ hai Báo cáo chuyên đề
62
2.1 Chuyên đề 1 Những vấn đề lý luận về thiệt hại trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường.
63
2.2 Chuyên đề 2 Những căn cứ và nguyên tắc xác định thiệt hại về
môi trường.
75
2.3 Chuyên đề 3
Bước đầu nghiên cứu về giám định thiệt hại môi
trường.
87
2.4 Chuyên đề 4 Những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường.
100
2.5 Chuyên đề 5 Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên
với trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ sự cố môi
trường.
110
2.6 Chuyên đề 6 Mối quan hệ giữa trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm pháp luật môi trường với trách
nhiệm hành chính trong lĩnh vực môi trường.
126
2.7 Chuyên đề 7 Mối quan hệ giữa trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm pháp luật môi trường với trách
nhiệm hình sự trong lĩnh vực môi trường.
138
2.8 Chuyên đề 8 Thực tiễn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường tại
Việt Nam trong thời gian qua.
151
2.9 Chuyên đề 9 Kinh nghiệm của nước ngoài về áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm
pháp luật môi trường gây nên.
160
2.10 Chuyên đề 10 Bước đầu nghiên cứu về bảo hiểm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về môi trường.
183
3. Tài liệu tham
khảo
191
4
Phần thứ nhất
BÁO CÁO TỔNG QUAN
5
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam, chất lượng môi trường
đang có những biến đổi theo chiều hướng bất lợi cho cuộc sống của con
người. Nguyên nhân chính của tình trạng này là sự tác động theo chiều hướng
tiêu cực của con người tới môi trường ngày càng gia tăng. Có nhiều cách
thức, biện pháp khác nhau được đưa ra nhằm ngăn chặn, hạn chế tình trạng
này, trong đó các biện pháp pháp lý với nội dung chính là quy định trách
nhiệm phải bồi thường thiệt hại gây nên do làm ô nhiễm, suy thoái môi trường
đang được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Luật Bảo vệ môi trường 20051 quy
định 5 điều về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường (Mục 2
Chương XIV, từ Điều 130 đến Điều 134)2. Đây là một bước tiến mới về mặt
lập pháp. Người làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại phải bồi thường là sự cụ
thể hóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả giá” (PPP) đã được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này không chỉ có tác
dụng trừng phạt người đã gây ô nhiễm môi trường mà còn có tác dụng răn đe
các chủ thể khác trong quá trình khai thác, sử dụng các thành tố của môi trường
không được gây tổn hại cho môi trường. Nói khác đi, bồi thường thiệt hại môi
trường ngày càng được xem là một nội dung quan trọng của quản lý và bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên, các quy định về bồi thường thiệt hại gây nên do làm ô
nhiễm, suy thoái môi trường hiện vẫn dừng ở mức chung chung, mang tính
nguyên tắc, chưa thể áp dụng trên thực tế. Thực tiễn giải quyết các vụ kiện
đòi bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên trong
thời gian qua tại Việt Nam gặp không ít khó khăn do chưa có sự thống nhất về
1
Được Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ tám thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và sẽ có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
2
Sau đây gọi tắt là bồi thường thiệt hại về môi trường
6
cách hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Do
vậy, cần phải có thêm những nguyên cứu có tính chuyên sâu về loại trách
nhiệm này, góp phần cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nước: Trong một số lĩnh vực khoa học có liên quan như xã hội
học môi trường, kinh tế học môi trường, khoa học quản lí về môi trường...
cũng đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường, như: “Xây dựng phương pháp xác định mức đền bù
thiệt hại bởi ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất, dịch vụ gây ra” do
Trung tâm kĩ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp, trường Đại học xây
dựng Hà Nội thực hiện năm 1999; “Bước đầu tiếp cận công tác thanh tra giải
quyết đền bù thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây bởi các hoạt động của Nhà
máy Nhiệt điện Phả lại” do Nguyễn Thị Thanh Minh, sinh viên Khoa Môi
trường, trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học quốc gia Hà Nội thực
hiện năm 2000, "Chính sách quản lý môi trường đối với việc giải quyết xung
đột môi trường", luận văn cao học chuyên ngành chính sách khoa học và công
nghệ của Lê Thanh Bình. Gần đây nhất là kết quả nghiên cứu về giá trị kinh tế
của Khu bảo tồn biển Hòn Mun (Economic valuation of the Hon Mun Marine
Protected Area). Song nhìn chung các công trình nêu trên mới chỉ đề cập đến
các giải pháp kỹ thuật, giải pháp kinh tế mà chưa đề cập đến việc giải quyết
bồi thường thiệt hại về môi trường.
Từ góc độ nghiên cứu khoa học pháp lí, chủ đề trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường cũng đã bước đầu nhận được sự quan tâm nghiên cứu
của các luật gia, cũng như những người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực
quản lý môi trường. Ở các mức độ và phạm vi khác nhau, đã có một số công
7
trình và tài liệu đề cập đến vấn đề này, như: Giáo trình Luật Môi trường của
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999); đề tài "Bước đầu nghiên cứu cơ chế giải
quyết tranh chấp môi trường tại Việt Nam" do Cục Môi trường, Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với
Vụ pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp thực hiện năm 2000; đề tài "Trách
nhiệm pháp lý dân sự trong lĩnh vực môi trường" do Viện nghiên cứu Khoa
học pháp lý - Bộ Tư pháp thực hiện năm 2002; các Báo cáo tổng kết công tác
thực tiễn giải quyết đòi bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi
trường gây nên của Phòng quản lý môi trường các tỉnh, thanh tra môi trường
các địa phương, Cục bảo vệ môi trường; "Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam
- Luật pháp và thực tiễn" của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao; luận án tiến sĩ luật
học của Vũ Thu Hạnh về “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam”; “Bồi thường thiệt hại về
môi trường” thuộc Chương trình hợp tác Việt Nam- Thụy Điển về tăng cường
năng lực quản lí nhà nước về đất đai và môi trường...
Nước ngoài: Có một số công trình nghiên cứu về cách thức đền bù và
đánh giá thiệt hại môi trường. Các công trình này trở thành căn cứ quan trọng
để đưa ra các quy định về giải quyết các khiếu kiện liên quan đến việc đòi bồi
thường thiệt hại về môi trường. Trong số này trước tiên cần kể đến công trình
“Đền bù và đánh giá thiệt hại môi trường: Một số vấn đề về chính sách và
pháp lí đối với khu vực ASEAN” do Tiến sĩ Brady Coleman - Trung tâm Luật
Môi trường châu á- Thái Bình Dương, Đại học tổng hợp Singapore thực hiện;
“Khuôn khổ thể chế hiện hành về đền bù và đánh giá thiệt hại môi trường tại
Malayxia” của Amirul arpin - Chuyên gia kiểm soát môi trường, Cục Môi
trường Malayxia; “Mô tả khuôn khổ hiện hành về đền bù và đánh giá thiệt hại
môi trường ở các nước thành viên ASEAN: Kinh nghiệm của Thái Lan” do
Charit Tingabadh- Trung tâm kinh tế, sinh thái- Khoa kinh tế- Đại học Tổng
8
hợp Chulalongkorn, Bangkok, Thai Lan thực hiện. Đặc biệt là ấn phẩm
"Compendium of summaries of judicial decisions in environment related
cases"
3
do Chương trình Môi trường Hợp tác Nam á (SACEP) và Chương
trình Môi trường của Liên Hợp quốc (UNEP) xuất bản năm 2001. Báo cáo
tổng hợp các kết quả nghiên cứu về trách nhiệm dân sự đối với bồi thường
thiệt hại về môi trường (Study of Civil Liability Systems for remedying
Environmental Damage)...
3. Mục đích, nội dung và pham vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường
gây nên, làm cơ sở cho việc hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường. Kết quả nghiên cứu sẽ trực tiếp phục vụ việc
giảng dạy một số chuyên đề sau đại học thuộc môn học Luật môi trường.
Phạm vi nghiên cứu:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường gồm 2 nội dung chính:
Bồi thường thiệt hại về môi trường do hành vi vi phạm pháp luật gây nên và
bồi thường thiệt hại về môi trường do sự cố môi trường gây nên. Trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài này, nhóm tác giả chỉ tập trung nghiên cứu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên.
Nghĩa là chỉ nghiên cứu trách nhiệm thiệt hại về môi trường đối với những
các chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện các hành vi trái pháp luật, xâm hại
các quan hệ xã hội được pháp luật môi trường bảo vệ mà không nghiên cứu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường do tai biến hoặc rủi ro xảy ra
trong quá trình hoạt động của con người.
3 Tạm dịch là "Trích yếu tóm tắt các quyết định của toà án trong các vụ có liên quan đến môi trường".
9
Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên tại Việt Nam.
- Đánh giá một số kết quả thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường ở Việt Nam trong
thời gian qua.
- Học hỏi kinh nghiệm của một số nước về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về môi trường.
- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Phương pháp nghiên cứu gồm phương pháp phân tích và khái quát hoá,
phương pháp lịch sử, phương pháp chuyên gia; phương pháp điều tra, nghiên
cứu, thu thập và kế thừa các kết quả đã có. Ngoài ra, phương pháp mô hình
hoá... cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
B. TÓM TẮT NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT MÔI TRƯỜNG GÂY
NÊN (GỌI CHUNG LÀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG LĨNH VỰC MÔI TRƯỜNG)
1.1. Thiệt hại và xác định thiệt hại trong lĩnh vực môi trường
1.1.1. Thiệt hại trong lĩnh vực môi trường
Trong lĩnh vực dân sự, thiệt hại có thể được hiểu là những tổn thất thực
tế được tính thành tiền, do việc bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức, bao gồm:
- Thiệt hại về tài sản: Biểu hiện cụ thể của loại thiệt hại này là người bị
thiệt hại bị mất tài sản, giảm sút tài sản, trả những chi phí để ngăn chăn, hạn
10
chế, sửa chữa, thay thế tài sản và cả những lợi ích gắn liền với việc sử dụng,
khai thác công dụng của tài sản.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ: Đây là những thiệt hại làm phát sinh
thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi
chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe gây ra.
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị tín bị xâm hại: Loại thiệt hại
này bao gồm chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực
tế bị mất bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại.
- Tổn thất về tinh thần. Đây là những tổn thất mà về nguyên tắc là không
thể giá trị được bằng tiền và không thể phục hồi được.
Khác với thiệt hại trong dân sự, trong lĩnh vực môi trường, thiệt hại lại
được hiểu là những tổn thất do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường gây
ra. Theo qui định tại Điều 130 Luật bảo vệ môi trường 2005, thiệt hại do ô
nhiễm, suy thoái môi trường bao gồm:
Một là: Sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật. Xem xét dưới giác độ xác định thiệt hại và bồi thường thiệt
hại thì các yếu tố nhân tạo thường được nhìn nhận là các loại tài sản hiện hữu,
thuộc quyền sở hữu của một chủ thể xác định. Nếu chúng có bị suy giảm chức
năng, tính hữu ích thì cần được hiểu là suy giảm chức năng, tính hữu ích của
chính tài sản đó. Nói cách khác, đó là các thiệt hại về tài sản của người bị
thiệt hại và người bị thiệt hại trong trường hợp này có thể là Nhà nước cũng
có thể là một tổ chức, cá nhân cụ thể. Trong khi đó, các yếu tố tự nhiên lại
được xem là những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại, phát triển chung của cả
cộng đồng, không do một tổ chức, cá nhân nào tạo ra và đương nhiên thuộc
quyền sở hữu chung của cả cộng đồng mà đại diện là Nhà nước. Do đó, nếu
11
có sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của các yếu tố này thì đó là sự suy
giảm các giá trị môi trường sống nói chung. Chính vì vậy, nói đến thiệt hại
trong lĩnh vực môi trường dưới góc độ chức năng, tính hữu ích của môi
trường bị suy giảm là nói đến sự suy giảm chức năng, tính hữu ích vốn có của
môi trường tự nhiên.
Xét một cách khái quát, nói đến chức năng, tính hữu ích của môi trường,
có thể kể đến ba chức năng chính sau đây: i) Môi trường là không gian sinh
tồn của con người; ii) Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên, kể cả vật
liệu, năng lượng, thông tin cần thiết cho cuộc sống và hoạt động của con
người; iii) Môi trường là nơi chứa đựng và xử lý chất thải do con người tạo ra
trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.
Như vậy, có thể thấy, sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường xảy ra khi: i) Chất lượng của các yếu tố môi trường sau sử dụng nhỏ
hơn quy chuẩn kĩ thuật về môi trường qui định; ii) Lượng tài nguyên thiên
nhiên có thể tái tạo được sử dụng lớn hơn lượng được khôi phục, tái tạo và
lượng tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được khai thác, sử dụng lớn
hơn lượng thay thế; iii) Lượng chất thải thải vào môi trường lớn hơn khả năng
tái sử dụng, tái chế hoặc phân huỷ tự nhiên.
Hai là: Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người, tài sản và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường gây ra. Cụ thể là:
- Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ do hậu quả của việc suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường. Tương tự với loại thiệt hại này trong lĩnh
vực dân sự nói chung, người bị thiệt hại phải chi trả các chi phí cứu chữa, bồi
dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất và các khoản thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút do bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe gây ra từ tình trạng
môi trường bị ô nhiễm hoặc bị suy thoái.
12
- Thiệt hại về tài sản do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu
ích của môi trường. Đây là những thiệt hại về vật chất của người bị thiệt hại
như mất tài sản, bị giảm sút tài sản... mà nguyên nhân của nó là do chức năng,
tính hữu ích của môi trường bị suy giảm. Chính những biểu hiện xấu này của
môi trường đã làm cho họ bị mất, bị giảm sút tài sản, phải chi trả những chi
phí cho việc sửa chữa, thay thế, ngăn chặn và phục hồi tài sản.
- Thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc
suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Đây là những thiệt hại mà
người bị thiệt hại phải gánh chịu do việc khai thác, sử dụng các thành phần
môi trường đã bị suy giảm chức năng, tính hữu ích. Họ là những chủ thể
được phép khai thác, sử dụng một cách hợp pháp các thành phần môi trường
đó để phục vụ cho các hoạt động của mình. Tuy nhiên, do các thành phần môi
trường này đã bị ô nhiễm hoặc suy thoái nên họ không thể tiếp tục khai thác,
sử dụng hoặc phải khai thác, sử dụng một cách hạn chế, dẫn đến lợi ích vật
chất của họ bị tổn hại.
Như vậy, nói đến thiệt hại trong lĩnh vực môi trường là nói đến hai loại
thiệt hại. Thứ nhất là sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Loại
thiệt hại này thường gắn với chủ thể bị thiệt hại là Nhà nước, người đại diện
cho lợi ích chung của cả cộng đồng. Loại thiệt hại thứ hai lại thường gắn với
chủ thể bị thiệt hại là các tổ chức, cá nhân cụ thể. Đó là những thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.
Trong mối quan hệ với loại thiệt hại thứ nhất, loại thiệt hại thứ luôn được xem
là thiệt hại gián tiếp (còn gọi là thiệt hại phái sinh hay thiệt hại thứ sinh).
So với các thiệt hại trong các lĩnh vực khác, thiệt hại trong lĩnh vực môi
trường có những dấu hiệu đặc trưng riêng của nó. Đó là:
- Thiệt hại thường có giá trị lớn. Môi trường có vai trò hết sức quan
trọng đối với sự tồn tại, phát triển của con người nên khi bị tổn hại, nó thường
13
để lại hậu quả rất lớn. Mặt khác, thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
không dễ nhận biết. Vì thế, trong rất nhiều trường hợp, thiệt hại về môi
trường chỉ được xác định khi đã ở vào giai đoạn cuối của quá trình ô nhiễm và
suy thoái nên hậu quả đã trở nên khá nặng nề.
- Thiệt hại thường khó xác định một cách chính xác. Có cả những thiệt
hại gián tiếp, thiệt hại lâu dài... nên không thể dễ dàng trị giá thiệt hại ngay
trong một thời điểm cụ thể. Có những thiệt hại có thể xác định được mức độ bị
hại, như số lượng cá chết trong ao, hồ; số hoa màu bị hư hỏng do nguồn nước
bị ô nhiễm... nhưng cũng có những thiệt phải dựa trên sự suy đoán hợp lý và
khoa học thì mới xác định được mức độ bị hại. Ví dụ, thiệt hại đối với tổ chức,
cá nhân về thu nhập bị mất hoặc lợi nhuận bị giảm sút do phải đình trệ các
hoạt động bình thường từ sự cố môi trường gây ra, như hoạt động du lịch, khai
thác thuỷ sản...
- Trong nhiều trường hợp, thiệt hại không phải là do con người gây ra.
Những tổn hại gây ra có thể do chính những biến đổi của thất thường của tự
nhiên (chẳng hạn tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường xảy ra do hậu quả
của một sự cố môi trường).
- Thiệt hại thường rất khó khắc phục, thậm chí có những trường hợp
không thể khắc phục được. Điều này xuất phát từ chính những đặc trưng của
môi trường. Đó là khi bị ô nhiễm, suy thoái thì hoặc là phải mất rất nhiều thời
gian để khắc phục nhưng vẫn không thể khôi phục lại được trạng thái ban đầu,
hoặc là không thể khôi phục lại được.
- Thiệt hại thường xảy ra trên một phạm vi rộng. Do môi trường là tổng
thể các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo, có quan hệ mật thiết với
nhau nên khi một thành phần môi trường này bị tổn hại có thể gây tổn hại cho
nhiều thành phần môi trường khác (có tính “lan truyền” hay hiệu ứng Đô mi
nô). Ví dụ, gây ô nhiễm nước sẽ dẫn đến thiệt hại đối với đất có mặt nước,
thiệt hại đối với các nguồn lợi thủy sinh... Bên cạnh đó, chính đặc tính không
14
biên giới của môi trường cũng có thể làm cho tình trạng biến đổi xấu của nó
lây lan rất nhanh, trên một phạm vi rộng lớn, có thể mang tính liên quốc gia.
1.1.2. Những căn cứ xác định thiệt hại về môi trường
Từ phương diện pháp lý, thiệt hại về môi trường có thể được xác định
dựa trên các căn cứ sau:
Thứ nhất, đối với