Hiện nay, khi xu hướng hội nhập ngày càng mở rộng cùng với sự phát triển, tiến bộ vượt bậc của các quốc gia trên thế giới thì vấn đề hợp tác giữa các quốc gia đã trở nên khá quen thuộc và cần thiết. Tuy nhiên, bất cứ sự hợp tác, thỏa thuận nào cũng đều tiềm ẩn những nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng và xảy ra tranh chấp. Đó có thể là mâu thuẫn về lợi ích, về chính trị, về độc lập chủ quyền Những tranh chấp này đã, đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong bối cảnh hiện nay, với các tranh chấp điển hình như: tranh chấp về môi trường giữa Arghentina và Uruguay, “Hàng rào an ninh” giữa Israel và Palestine, tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia liên quan đến ngôi đền Preah Vihear Mỗi quốc gia đều cần có sự tôn trọng độc lập chủ quyền và có địa vị pháp lý ngang nhau trong mối quan hệ hợp tác quốc tế, thế nên, khi có tranh chấp phát sinh, vấn đề đặt ra là ai sẽ đứng ra giải quyết, giải quyết như thế nào để tìm ra tiếng nói chung để được các bên công nhận tuân theo. Dựa trên xu thế phát triển và đòi hỏi này, Tòa án công lý quốc tế đã ra đời nhằm giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh.
Vậy, hiểu như thế nào về tranh chấp quốc tế, những tranh chấp nào được Tòa án công lý quốc tế giải quyết, và Tòa án công lý quốc tế là gì, hoạt động ra sao? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những vấn đề này qua đề tài: “Tranh chấp quốc tế và việc giải quyết tranh chấp quốc tế tại Tòa án công lý quốc tế”.
20 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10296 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tranh chấp quốc tế và giải quyết tranh chấp quốc tế tại tòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG – CHỨNG KHOÁN
bôa
Bài tiểu luận môn: Luật quốc tế
Đề tài:
TRANH CHẤP QUỐC TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ TẠI TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC TẾ
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Thu Trang
Danh sách nhóm:
1. Trần Thị Mai Loan K085041688
2. Nguyễn Huyền Trang K085041742
3. Phạm Lương Mỹ Linh K085041687
4. Nguyễn Ngọc Kim Ngân K085041696
5. Võ Thanh Vy K085041757
6. Vi Vũ Việt Anh K085041644
7.Nguyễn Huy Hoàng K085041676
TP.HCM, tháng 12 năm 2010
MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
I. Tranh chấp quốc tế 4
1. Khái niệm 4
2. Chủ thể của tranh chấp quốc tế 4
3. Phân loại 4
4. Các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế 6
II. Tòa án công lý quốc tế - ICJ 11
1. Cơ sở pháp lý 11
2. Lịch sử hình thành 11
3. Cơ cấu tổ chức 12
4. Nguyên tắc hoạt động 12
5. Thẩm quyền 14
III. Kết luận 19
Danh mục tài liệu tham khảo 20
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, khi xu hướng hội nhập ngày càng mở rộng cùng với sự phát triển, tiến bộ vượt bậc của các quốc gia trên thế giới thì vấn đề hợp tác giữa các quốc gia đã trở nên khá quen thuộc và cần thiết. Tuy nhiên, bất cứ sự hợp tác, thỏa thuận nào cũng đều tiềm ẩn những nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng và xảy ra tranh chấp. Đó có thể là mâu thuẫn về lợi ích, về chính trị, về độc lập chủ quyền… Những tranh chấp này đã, đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong bối cảnh hiện nay, với các tranh chấp điển hình như: tranh chấp về môi trường giữa Arghentina và Uruguay, “Hàng rào an ninh” giữa Israel và Palestine, tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia liên quan đến ngôi đền Preah Vihear… Mỗi quốc gia đều cần có sự tôn trọng độc lập chủ quyền và có địa vị pháp lý ngang nhau trong mối quan hệ hợp tác quốc tế, thế nên, khi có tranh chấp phát sinh, vấn đề đặt ra là ai sẽ đứng ra giải quyết, giải quyết như thế nào để tìm ra tiếng nói chung để được các bên công nhận tuân theo. Dựa trên xu thế phát triển và đòi hỏi này, Tòa án công lý quốc tế đã ra đời nhằm giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh.
Vậy, hiểu như thế nào về tranh chấp quốc tế, những tranh chấp nào được Tòa án công lý quốc tế giải quyết, và Tòa án công lý quốc tế là gì, hoạt động ra sao? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những vấn đề này qua đề tài: “Tranh chấp quốc tế và việc giải quyết tranh chấp quốc tế tại Tòa án công lý quốc tế”.
Tranh chấp quốc tế
1. Khái niệm
Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về tranh chấp quốc tế trong các văn bản pháp lý.
Theo quan niệm của Pháp viện thường trực quốc tế - cơ quan giải quyết tranh chấp của Hội quốc liên (tổ chức tiền thân của Liên Hợp Quốc): tranh chấp là sự bất đồng về một quy phạm pháp luật hoặc sự kiện nào đó giữa các chủ thể nhất định (trường hợp này là giữa các quốc gia) khi một trong các bên đưa ra yêu sách, đòi hỏi đối với bên kia nhưng bên đó không chấp nhận hoặc chỉ chấp nhận một phần.
Căn cứ vào thực tế, có thể hiểu theo cách chung nhất, tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế mà trong đó, các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau và có những yêu cầu hay đòi hỏi cụ thể trái ngược nhau.
Đó là sự không thỏa thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa đến sự mâu thuẫn, đối lập nhau về quan điểm pháp lý hoặc quyền giữa các bên chủ thể luật quốc tế với nhau.
Chủ thể của tranh chấp quốc tế
Các chủ thể của tranh chấp quốc tế là chủ thể của luật quốc tế bao gồm các quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức quốc tế liên chính phủ (tổ chức Asean, EU, WTO…), và các chủ thể đặc biệt khác (Vatican, công quốc Monaco…). Trong đó, các quốc gia là chủ thể cơ bản của tranh chấp quốc tế.
Xung đột giữa các chủ thể khác chủ thể của luật quốc tế không thể là tranh chấp quốc tế. Do đó, cần tránh nhầm lẫn tranh chấp quốc tế với tranh chấp khác. Ví dụ, tranh chấp giữa các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá basa và hiệp hội chống bán phá giá của Mỹ không phải là tranh chấp quốc tế.
Phân loại
Hiện nay, xuất hiện ngày càng nhiều tranh chấp quốc tế mà tính chất các tranh chấp này ngày một đa dạng nhưng nhìn chung ta có các cách phân loại tranh chấp quốc tế như sau, và mỗi cách phân loại đều có các tiêu chí nhất định.
Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia
-Tranh chấp song phương: tranh chấp giữa hai bên
-Tranh chấp đa phương: tranh chấp giữa nhiều bên bao gồm tranh chấp có tính khu vực và tranh chấp có tính toàn cầu.
Ví dụ: Sau hội thảo “Biển Đông hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”, các học giả phương Tây nhất trí rằng tranh chấp ở biển Đông bao gồm tranh chấp song phương và đa phương.
Căn cứ vào tính chất của vụ việc
-Tranh chấp có tính chính trị: thường là tranh chấp về chủ quyền quốc gia đối với dân cư, lãnh thổ, về lợi ích giữa các bên… liên quan đến các đòi hỏi phải thay đổi các quy định hiện hành, gắn liền với quyền và nghĩa vụ của các bên. Tranh chấp thuộc loại này thường rất nguy hiểm, do tính chất phức tạp và có thể tiềm ẩn khả năng bùng phát các cuộc xung đột, đe dọa hòa bình, ổn định của khu vực cũng như của thế giới.
Ví dụ: Căng thẳng giữa Nicaragua và Costa Rica bùng nổ xung quanh hòn đảo Calero trên sông San Juan mà Nicaragua đang xúc tiến việc đào một con kênh và đốn hạ cây trên vùng lãnh thổ tranh chấp. Nicaragua bác bỏ việc binh lính của họ xâm nhập lãnh thổ Costa Rica trong khi nước này khẳng định lãnh thổ của họ bị xâm phạm
-Tranh chấp có tính pháp lý: là những tranh chấp giữa các bên liên quan đến sự bất đồng trong việc giải thích hoặc áp dụng các quy định hiện hành, như những tranh chấp về giải thích điều ước quốc tế, về các sự kiện vi phạm nghĩa vụ quốc tế. Đây là những tranh chấp tương đối phổ biến trong quan hệ quốc tế.
Căn cứ vào đối tượng tranh chấp
-Tranh chấp về kinh tế.
-Tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế hoặc tổ chức quốc tế.
Nhìn chung các cách phân loại kể trên chỉ có tính chất tương đối, vì trên thực tế có tranh chấp xảy ra, muốn phân biệt chúng thuộc loại tranh chấp nào đều không dễ dàng. Không ít vụ việc tranh chấp vừa mang tính pháp lý lại vừa mang tính chính trị. Do vậy các giải pháp cho mỗi vụ tranh chấp cụ thể cũng cần phải tính tới những yếu tố này.
Ví dụ như tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia nếu xét về tiêu chí chủ thể đây là tranh chấp song phương, nhưng xét về mặt tính chất thì đây lại là tranh chấp có tính chính trị.
Các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế
Các tranh chấp ngày một gia tăng vì vậy vấn đề đặt ra là các phương cách giải quyết nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên đồng thời cũng phù hợp với từng loại tranh chấp.
Dù lựa chọn phương cách nào thì nền tảng đặt ra trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế đó là giải quyết trên cơ sở nguyên tắc hòa bình. Giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình là hệ quả trực tiếp được rút ra từ nguyên tắc không dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nguyên tắc dùng phương pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp lần đầu tiên được nêu trong Hiệp ước Braind-Kellog năm 1928. Sau đó được ghi nhận trong khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hợp Quốc: “Hội viên Liên Hợp Quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng các biện pháp hòa bình làm thế nào để khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế cũng như công lý”. Ghi nhận này được nhấn mạnh trong Tuyên ngôn 1970 của Liên Hợp Quốc và được cụ thể trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương khác. Theo nguyên tắc này, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình có các biện pháp sau:
Phương pháp đàm phán trực tiếp
Phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện thông qua việc đàm phán trực tiếp giữa các bên tranh chấp. Trong số các biện pháp giải quyết tranh chấp, đàm phán được áp dụng rất phổ biến và được biết đến từ rất sớm trong lịch sử quan hệ quốc tế và luôn chiếm vị trí hàng đầu trong số danh mục các biện pháp mà các chủ thể luật quốc tế áp dụng.
Đàm phán trực tiếp là sự trao đổi có tính chất đề xuất, thương lượng, bàn bạc, theo hình thức song phương, đa phương về các vấn đề nảy sinh tranh chấp diễn ra giữa các bên liên quan, trong khuôn khổ một hội nghị hoặc các cuộc gặp song phương.
Ví dụ: Tranh chấp biên giới đường bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, cuộc đàm phán sáu bên tại Cộng hòa nhân dân Triều Tiên…
Trên thực tế đàm phán trực tiếp không chỉ được sử dụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên chủ thể luật quốc tế mà còn là phương tiện được sử dụng để trao đổi thông tin, ý kiến về các vấn đề khác nhau, thống nhất quan điểm, đường lối, ký kết các điều ước quốc tế. Đàm phán có thể được tiến hành bởi đại diện chính thức của các bên hữu quan ở các cấp độ khác nhau, chẳng hạn như ở cấp cao nhất – nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ hoặc không chính thức.
Ưu điểm: một trong những ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là bên thứ ba (thậm chí cả cộng đồng quốc tế) cũng khó gây áp lực và can thiệp vào quá trình giải quyết tranh chấp, do đó các bên tự do thể hiện ý chí của mình, dẫn đến nếu đàm phán thành công thì việc áp dụng rất khả thi. Ngoài ra còn các ưu điểm như: các bên chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết, đảm bảo được bí mật và không chịu sự tác động của bên thứ ba, uy tín, vị thế trên trường quốc tế được đảm bảo.
Nhược điểm: tỷ lệ thành công không cao xuất phát từ tự do thể hiện ý chí khi quyền lợi các bên không đạt đến sự thỏa thuận chung.
Nhóm biện pháp thông qua bên thứ ba
- Biện pháp trung gian: được quy định trong công ước Lahaye 1899 và 1907 như là một trong các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Bên thứ ba là chủ thể có uy tín trên trường quốc tế, khuyến khích các bên tranh chấp ngồi vào bàn đàm phán. Bên trung gian không tham gia vào đàm phán và không đưa ra các điều kiện giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp thông qua trung gian thực chất là các bên chấp nhận sự tham gia của bên thứ ba. Bên thứ ba có thể là một hoặc một số quốc gia; một hoặc một số cá nhân có uy tín và cũng có thể là thông qua cơ quan của tổ chức quốc tế.
Với nguyên tắc, cơ quan trung gian phải tôn trọng ý chí tự quyết của các bên tranh chấp. Các đề nghị khuyến cáo của cơ quan trung gian liên quan đến vụ tranh chấp chỉ có thể là cơ sở cho các cuộc đàm phán và thỏa thuận giữa các bên tranh chấp mà không thể có giá trị pháp lý ràng buộc.
Ưu điểm: Các bên nỗ lực giải quyết tranh chấp do sự tác động của bên thứ ba, tỷ lệ thành công trong giải quyết tranh chấp cao hơn trong đàm phán trực tiếp, có tính khả thi cao mà vẫn giữ được bí mật. Ngoài ra còn chủ động được thời gian, địa điểm và không tốn kém chi phí nhiều.
Nhược điểm: Các bên tranh chấp chịu sự tác động của bên thứ ba và uy tín trên trường quốc tế sụt giảm.
Ví dụ: Mỹ và Trung quốc kêu gọi Hàn quốc và Triều Tiên ngồi vào bàn đàm phán giải quyết tranh chấp xung quanh đảo Yeon Peong
- Biện pháp hòa giải: Bên thứ ba có uy tín trên trường quốc tế khuyến khích các bên ngồi vào bàn đàm phán và bên thứ ba tham gia trực tiếp vào bàn đàm phán bằng cách đưa ra dự thảo giải quyết tranh chấp để các bên tham khảo.
Với tư các tham gia tích cực vào đàm phán giữa các bên tranh chấp, bên hòa giải có phạm vi quyền hạn và nghĩa vụ rộng lớn hơn, thể hiện ở việc tham gia đàm phán từ đầu cho đến khi kết thúc, thậm chí có thể điều khiển cả cuộc đàm phán, đưa ra kiến nghị hoặc đưa ra đề nghị thay đổi yêu sách của các bên tranh chấp nhằm làm cho các bên xích lại gần nhau hơn, dung hòa các yêu sách của các bên nhưng kiến nghị của họ không có tính chất bắt buộc đối với các bên. Bên thứ ba có thể là một hoặc một số quốc gia, cá nhân hoặc tổ chức quốc tế, không tham gia vào vụ tranh chấp.
Hòa giải được coi là kết thúc trong các trường hợp sau:
Vụ tranh chấp đã kết thúc
Các bên tranh chấp chấp nhận các kết luận, khuyến nghị… của bên hòa giải
Các bên hoặc một bên tranh chấp bác bỏ các kết luận hoặc khuyến nghị đó.
Ưu điểm: có tính hiệu quả cao, các bên nỗ lực giải quyết tranh chấp và nỗ lực thực hiện thỏa thuận.
Nhược điểm: không đảm bảo bí mật, chịu sự tác động rất lớn của bên thứ ba, uy tín bị sụt giảm và các bên không chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết.
- Biện pháp thông qua Ủy ban kiểm tra và hòa giải: Văn kiện chung về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế năm 1928 có ghi nhận việc thành lập Ủy ban hòa giải thường trực hoặc Ủy ban hòa giải đặc biệt. Trong thời hạn sáu tháng, sau khi có đề nghị của một bên tranh chấp, sẽ thành lập Ủy ban hòa giải thường trực hoặc Ủy ban hòa giải đặc biệt gồm 5 thành viên, mỗi bên tranh chấp chỉ định một thành viên (có thể là công dân của nước mình), 3 thành viên còn lại được lựa chọn dựa trên sự thỏa thuận chung của các bên. Ủy ban này bao gồm các chuyên gia về lĩnh vực mà các bên tranh chấp. Nhiệm vụ của ủy ban là sẽ hỗ trợ về mặt chuyên môn, không mang tính chính trị như hòa giải.
Ưu điểm: có ưu điểm lớn là được hỗ trợ về mặt chuyên môn, tính hiệu quả cao, các bên nỗ lực thực hiện.
Nhược điểm: không đảm bảo bí mật, chịu sự tác động lớn từ bên thứ ba, uy tín sụt giảm và các bên không chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết, chi phí tốn kém.
- Biện pháp thông qua tổ chức quốc tế: tổ chức quốc tế chỉ tham gia giải quyết tranh chấp giữa các bên trong tổ chức đó, và trình tự giải quyết theo quy định riêng của tổ chức.
Ưu điểm: trình tự giải quyết rõ ràng, chi tiết, các bên nỗ lực thực hiện, tỷ lệ thành công khá cao, có tính khả thi.
Nhược điểm: trình tự giải quyết rườm rà, phức tạp, các bên không chủ động được về thời gian, địa điểm giải quyết, không đảm bảo tính bí mật do có sự tham gia của bên thứ ba, uy tín sụt giảm.
Phương pháp thông qua cơ quan tài phán quốc tế
Một trong những lựa chọn thông dụng của các bên nhằm giải quyết tranh chấp quốc tế là thông qua cơ quan tài phán quốc tế. Về bản chất, tài phán quốc tế là cách thức hòa bình để giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp, thủ tục tư pháp do các quốc gia lựa chọn. Nhìn chung, các cơ quan tài phán quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hai dạng là Tòa án quốc tế và Trọng tài quốc tế.
Trọng tài quốc tế
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, trọng tài quốc tế là phương thức được sử dụng từ rất sớm để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế. Trọng tài quốc tế đã được sử dụng tương đối rộng rãi để giải quyết các tranh chấp trong nhiều lĩnh vực. Đặc biệt các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng điều ước quốc tế thì trọng tài quốc tế được đánh giá là biện pháp hữu hiệu, công bằng và hợp lý nhất trong trường hợp các biện pháp ngoại giao được áp dụng không thành công.
Tòa trọng tài không có thẩm quyền đường nhiên, cơ sở xác định thẩm quyền của tòa trọng tài là sự nhất trí của các bên tranh chấp về việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài. Sự nhất trí này phải được thể hiện một cách rõ ràng, minh bạch trong điều ước quốc tế về trọng tài.
Về phân loại, dựa vào cơ chế hoạt động, trọng tài quốc tế được phân thành trọng tài thường trực và trọng tài vụ việc (Ad hoc).
Trọng tài thường trực có trụ sở và làm việc thường xuyên, liên tục, có quy chế hoạt động thủ tục rõ ràng, có các nhân viên chuyên nghiệp giúp đỡ các bên trong quá trình tố tụng, có kinh nghiệm thực tiễn, dựa trên những kinh nghiệm này mà tòa có thể giúp các bên chỉ định được các trọng tài viên có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tế thích hợp tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Trọng tài vụ việc được thành lập khi các bên tranh chấp lựa chọn thành lập hội đồng trọng tài gồm các trọng tài có uy tín và kinh nghiệm. Sauk hi giải quyết xong tranh chấp, hội đồng trọng tài tự giải tán. Số trọng tài trong một tổ luôn luôn là số lẻ. Điểm mạnh của tòa là khả năng linh hoạt đáp ứng yêu cầu của các bên, tiết kiệm được án phí do không phải chịu chi phí điều hành.
Phán quyết của trọng tài quốc tế có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp, có giá trị chung thẩm, các bên không có quyền khiếu nại mà chỉ có quyền đề nghị trọng tài xem xét lại phán quyết. Tuy nhiên trên thực tế không có cơ chế đảm bảo thực hiện phán quyết này.
Ưu điểm: Tỷ lệ thành công cao, người giải quyết có trình độ chuyên môn cao, trình tự giải quyết rõ ràng. Phán quyết có giá trị chung thẩm nên trình tự thủ tục nhanh.
Nhược điểm: Chi phí tốn kém, không đảm bảo bí mật, uy tín trên trường quốc tế sụt giảm. Phán quyết chỉ có giá trị tham khảo vì không có cơ chế đảm bảo thực hiện.
Tòa án quốc tế
Gồm nhiều tòa khác nhau, mỗi tòa chịu trách nhiệm giải quyết những tranh chấp riêng biệt. Ví dụ tòa hình sự quốc tế tập trung giải quyết tội phạm quốc tế, như tòa án Tokyo, tòa án Newranber là những tòa hình sự. Để giải quyết tranh chấp quốc tế có các tòa như tòa án công lý quốc tế (ICJ), tòa án liên minh châu Âu, tòa án châu Phi, tòa án luật Biển…
Tòa án công lý quốc tế - ICJ
Cùng với sự ra đời của Liên Hợp Quốc, yêu cầu về việc thành lập cơ quan tài phán quốc tế trong khuôn khổ hoạt động của tổ chức này, thay thế cho Pháp viện thường trực quốc tế trở nên hiện hữu trong đời sống quốc tế. Tòa án công lý quốc tế là một trong sáu cơ quan chính của Liên Hợp Quốc. Có thể sơ lược một vài điều về Tòa an công lý quốc tế như sau:
Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý để Tòa hoạt động là Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 và Quy chế của Tòa án công lý quốc tế được thông qua 1946. Hiến chương dành cả chương XIV, từ điều 92 đến điều 96 để quy định những vấn đề cơ bản về tổ chức, nhiệm vụ, chức năng, và hoạt động của Tòa án. Quy chế Tòa án quốc tế gồm 70 điều, được coi là một phần phụ lục, gắn bó trực tiếp với Hiến chương. Cùng với Hiến chương và Quy chế, cơ sở pháp lý để Tòa tiến hành các hoạt động tư pháp còn bao gồm nội quy của Tòa. Nội quy của Tòa được thông qua ngày 6 tháng 5 năm 1946 cụ thể hóa các nguyên tắc được nêu trong Quy chế và không vượt quá các quy định của Quy chế. Tòa có thể sửa đổi nội dung Nội quy làm việc của mình cho phù hợp với tình hình hoạt động thực tiễn nhưng phải phù hợp với quy chế. Thực tế Tòa đã hai lần sửa đổi Nội Quy vào các năm 1972 và 1978.
Lịch sử hình thành
Ngày 6 tháng 12 năm 1946, Tòa án công lý quốc tế của Liên Hợp Quốc – cơ quan pháp lý chính của Liên Hợp Quốc chính thức đi vào hoạt động. Các nước thành viên Liên Hợp Quốc đương nhiên là thành viên quy chế của Tòa án công lý quốc tế. Bên cạnh đó, các nước không phải là thành viên Liên Hợp Quốc cũng có thể trở thành thành viên của cơ chế này.
Tòa có trụ sở chính đặt tại Lahaye (Hà Lan). Tại đây Tòa tiến hành các thủ tục tranh tụng giữa các bên và thủ tục nghị án. Tuy nhiên Tòa cũng có thể tiến hành các thủ tục nêu trên ở nơi khác ngoài Lahaye nếu xét thấy cần thiết và có tham khảo ý kiến của các bên.
Cơ cấu tổ chức
Vấn đề cơ cấu tổ chức ICJ được điều chỉnh tại Chương I từ điều 2 đến điều 33 của quy chế Tòa án quốc tế.
Theo đó, Toàn thể Tòa gồm một Hội đồng Thẩm phán độc lập với 15 thành viên, trong đó không thể có 2 thành viên cùng quốc tịch. Những thành viên được chọn sẽ trở thành đại diện cho hệ thống pháp luật thế giới. Việc lựa chọn các thành viên không căn cứ vào quốc tịch hay khu vực mà căn cứ vào năng lực, phẩm chất đạo đức. Tuy nhiên, trên thực tế, những năm gần đây, Hội đồng Thẩm phán thường bao gồm: 5 Thẩm phán đại diện cho mỗi quốc gia thành viên thường trực Hội đồng bảo an, 3 Thẩm phán của châu Á, 3 Thẩm phán của châu Phi, 2 Thẩm phán của châu Mỹ Latinh, 1 Thẩm phán của Tây Âu và 1 Thẩm phán của Đông Âu. Công việc bầu cử được thực hiện đồng thời tại Đại hội đồng và Hội đồng bảo an. Cả hai cơ quan này hoàn toàn độc lập trong việc bầu cử và không có bất kì sự phân biệt nào giữa các thành viên thường trực, không thường trực của Hội đồng bảo an. Ứng viên trúng cử là người nhận được đại đa số phiếu của cả Đại hội đồng và Hội đồng bảo an.
Các Thẩm phán thành viên của ICJ có nhiệm kì 9 năm và có thể được bầu lại, nhưng đặc biệt trong nhiệm kì đầu tiên sẽ có 5 Thẩm phán nhiệm kì 3 năm và 5 Thẩm phán nhiệm kì 6 năm được chọn theo phương pháp rút thăm ngay sau khi trúng cử. Các thành viên của ICJ sẽ nhận được quyền ưu tiên và miễn trừ ngoại giao trong quá trình thực thi công việc của mình.
Tòa án sẽ bầu chủ tịch và phó chủ tịch nhiệm kỳ 3 năm, chủ tịch và phó chủ tịch có thể được bầu lại.
Nguyên tắc hoạt động
ICJ là một cơ quan của Liên Hợp Quốc, do đó nguyên tắc hoạt động củ