Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của Kant (1724 – 1804) trải qua Phíchtơ (1762 – 1814), Schellinh (1775 – 1854) đến triết học duy tâm của Hêghen (1770 – 1831) và triết học duy vật của Feuerbach (1804 – 1872).
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kì triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó. Thời kì cuối thế kỉ XVIII, cuộc cách mạng Tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thỏa hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển Đức.
36 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11201 | Lượt tải: 9
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triết học cổ điển Đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: TS. Trịnh Tiến Thuận
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang
MSSV: K37.602.104
Lớp: K37_Sử B
Môn: Lịch sử văn minh thế giới
TP Hồ Chí Minh tháng 1 năm 2013
Đề tài:
TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
-----&-----
MỤC LỤC
Mở đầu 4
I. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội, khoa học và một số đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức 5
1. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội 5
2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức 5
II. Nội dung cơ bản của triết học cổ điển Đức thông qua các tác gia tiêu biểu 8
1. Immanuel Kant (1724 – 1804) 8
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Immanuel Kant 8
b) Những nội dung chính của “Triết học lí luận” 10
2. Johann Gottlieb Fichte (1762-1814) 14
a) Vài nét về Johann Gottlieb Fichte 14
b) Sơ lược về triết học của Johann Gottlieb Fichte 15
3. Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (1775 – 1854) 16
a) Vài nét về Friedrich Wilhelm Joseph Schelling 16
b) Sơ lược về triết học của Friedrich Wilhelm Joseph Schelling 16
4. Georg Vinhem Phridich Hegel (1770 – 1831) 17
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Hegel 17
b) Những tác phẩm triết học lớn của Hegel 18
c) Phép biện chứng và những hạn chế trong phép biện chứng của Hegel 25
5. Ludwig Feuerbach (1804 – 1872) 27
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Ludwig Feuerbach 27
b) Chủ nghĩa duy vật nhân bản Ludwig Feuerbach 28
c) Những hạn chế trong triết học của Ludwig Feuerbach 29
III. Kết luận 31
Phụ lục 32
Tài liệu tham khảo 35
MỞ ĐẦU
Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của Kant (1724 – 1804) trải qua Phíchtơ (1762 – 1814), Schellinh (1775 – 1854) đến triết học duy tâm của Hêghen (1770 – 1831) và triết học duy vật của Feuerbach (1804 – 1872).
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kì triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó. Thời kì cuối thế kỉ XVIII, cuộc cách mạng Tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thỏa hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển Đức.
Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng, nhưng hình thức của nó thì cực kì “rối rắm” và có tính chất bảo thủ.
I. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội, khoa học và một số đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển đức
1. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản được thiết lập và phát triển mạnh mẽ hầu hết ở các nước Tây Âu. Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra bước nhảy đột biến trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khẳng định tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa tư bản so với tất cả các xã hội trước đó. Trong khi đó nước Đức vẫn đang ì ạch trong chế độ phong kiến. Xu hướng phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa đã bị chế độ phong kiến quan liêu chuyên chế cản trở. Nhà nước liên bang chỉ tồn tại trên danh nghĩa, gồm 360 công quốc nhỏ bé làm cho đất nước Đức trở thành một quốc gia manh mún, yếu kém về mọi mặt như Ănghen đã gọi nó là “sự cùng khổ Đức” của lịch sử nước Đức. Giai cấp Tư sản nằm mơ về cách mạng tư sản Pháp nhưng lại chưa dám hành động.
Cùng với tình hình kinh tế - xã hội ở trong nước sự phát triển của khoa học, đặc biệt là sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đặt ra nhiều vấn đề phải xem xét lại. Các phát minh khoa học đã chứng tỏ rằng phương pháp tư duy siêu hình, tư biện không thể pát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên và thực tiễn trong xã hội đang diễn ra ngày càng phong phú phức tạp.
Thực tiễn và nhu cầu phát triển tư duy lý luận đòi hỏi và đã tạo tiền đề, điều kiện cho sự xuất hiện của một nền triết học mới–Triết học cổ điển Đức.
2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp Tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Như tình trạng nước Đức lúc bấy giờ trong tư tưởng và hệ thống của các triết gia Đức có tính hai mặt. Do các nhà triết học phần lớn xuất thân từ tầng lớp xã hội thượng lưu, gắn bó mật thết phong trào quý tộc về lợi ích kinh tế, địa vị chính trị, vì thế một mặt họ mong muốn thống nhất đất nước, phồn vinh, nhưng một mặt họ sợ sức mạnh của quần chúng lao động mà thoả hiệp với các quý tộc phong kiến dẫn đến tư tưởng bảo thủ, cải lương về mặt chính trị - xã hội, mâu thuẫn với tính cách mạng và tính khoa học.
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò, vị trí tích cực của con người. Kế thừa và phát huy những tư tưởng thời kỳ Phục Hưng và Cận đại, các nhà triết học cổ điển Đức đã khẳng định con người là chủ thể, là kết quả là sản phẩm của hoạt động tự nó, cho nó vì nó cho nên thực tiễn cao hơn lý luận, lịch sử chỉ là phương thức tồn tại của con người, cá nhân có thể làm chủ được vận mệnh của mình và cao hơn là tư tưởng con người trong bản chất xã hội. Như vậy triết học cổ điển Đức đã làm một bước rẽ trong việc hình thành, phát triển của triết học. Nếu như trước đây triết học phương Tây lấy những vấn đề nhận thức luận, bản thể luận…làm nền tảng, thì trong bối cảnh đầy sự biến động cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX con người lại trở thành xuất phát điểm của mọi vấn đề triết học. Tuy vậy trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và ảnh hưởng to lớn của nó đến đời sống kinh tế - văn hoá – xã hội đã đưa đến quan niệm sùng bái và tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, của tư duy. Biến tư duy của con người thành một thực thể độc lập đối với đời sống thực của nó, thực thể tinh thần tối cao làm căn nguyên để giải thích cho tất cả mọi cái, mọi hiện tượng đang hiện tồn.
Trong triết học cổ điển Đức thực tiễn và khoa học đã đặt ra yêu cầu là cần phải có phương pháp tư duy để phản ánh chân thực về tồn tại mà lại thể hiện được tinh thần cách mạng của thời đại. Các nhà triết học cổ điển Đức đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong di sản triết học truyền thống để xây dựng nên phép biện chứng của mình. Lần đầu tiên phép biện chứng tồn tại là một phương pháp nhận thức có tính đồng kết, được biểu hiện chặt chẽ qua hệ thống các khái niệm phạm trù. Mặc dù là phép biện chứng duy tâm những vẫn được các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đánh giá cao. Đó là một trong những cơ sở lý luận được triết học Mác đề ra.
Trên đây là những đăc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức. Luận điểm của Mác coi những đặc điểm của triết học cổ điển Đức là “ lý luận của ngưòi Đức về cách mạng tư sản Pháp” một mặt cho thấy đặc điểm riêng của triết học cổ điển Đức so với triết học Pháp thế kỷ XVIII, dù giữa chúng có sự kế thừa to lớn ; mặt khác khẳng định giá trị tư tưởng vĩ đại của triết học cổ điển Đức.
II. Nội dung cơ bản của triết học cổ điển Đức thông qua các tác gia tiêu biểu
Immanuel Kant (1724 – 1804)
Vài nét về cuộc đời và triết học của Immanuel Kant
Imanuel Kant (1724- 1804) được mọi người biết đến là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức; là một trong những nhà tiết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước Mác. Triết học của ông là “nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công lao đó của Kant”.
Kant sinh năm 1724 ở Kênisbec. Năm 1745 ông tốt nghiệp đại học tổng hợp Kênisbec và trở thành một gia sư. Năm 1755 ông là giáo sư và từ năm 1770 là giáo sư của trường đại học Kênisbec. Là một trong những học giả uyên bác nhất đương thời, ông giảng dạy về nhiều lĩnh vực: siêu hình học, logic học và toán học, cơ học, địa chất học…
Trong suốt cuộc đời 80 năm của mình, ông đã sản sinh ra hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng để đời như : Phê phán lý tính thuần túy (1781); Mở đầu khoa siêu hình học tương lai (1783); Các nguyên tắc của siêu hình học về đạo đức (1785) Phê phán lý tính thực tiễn (1788); Phê phán năng lực phán đoán (1790); Nhân học (1798)…..
Sự phát triển về tư tưởng triết học của Kant được phân làm 2 thời kỳ: thời kỳ tiền phê phán (trước 1770) và thời kỳ phê phán (sau 1770).
Thời kỳ tiền phê phán:
Thời kỳ đầu các tác phẩm chủ yếu của Kant viết về triết học tự nhiên, chẳng hạn như tác phẩm Lịch sử tự nhiên đại cương và học thuyết về bầu trời viết năm 1755 ông đưa ra giả thuyết giải thích nguồn gốc sự hình thành của vũ trụ. Trong các tác phẩm triết học của thời kỳ tiền phê phán lúc đầu Kant chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý của Lépnít và Vônphơ nhưng về sau trong các tác phẩm Về những sai lầm tinh tế của bốn loại hình tam đoạn luận (Xuất bản 1762) và trong Kinh nghiệm của việc dựa vào triết học khái niệm các đại lượng phủ định (Xuất bản 1763) thì Kant đi tìm hạn chế của chủ nghĩa duy lý và logic. Với ảnh hưởng của Hium, Kant ngày càng xa rời cách nhìn suy lý và logic. Đó chính là xuất phát cho sự chuyển biến từ các tác phẩm thời kỳ tiền phê phán sang các tác phẩm thời kỳ phê phán.
Triết học thời kỳ phê phán:
Do chịu ảnh hưởng của các biến đổi ở Pháp và Tây âu trước cách mạng tư sản 1789 và đặc biệt là ảnh hưởng của Hium, thế giới quan của Kant đã biến đổi. Ông đặt nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ các vấn đề triết học từ trước tới nay, trên tinh thần phê phán như quan niệm về con người, về lý tính về khả năng nhận thức của con người, về hành vi đạo đức, về trách nhiệm và hạnh phúc của con người. Theo Kant khoa học về con người chưa được chú trọng nghiên cứu và phát triển đúng mức, chưa hướng vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn cho con người có cách nhìn về bản thân và về thế giới từ đó vạch ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo, đạo đức, tự do, xứng với nhân vị cuả con người. Hệ thống triết học của ông được thể hiện qua bộ 3 tác phẩm “phê phán” nổi tiếng của ông. Trong Phê phán lý tính thuần túy, ông trình bày nhận thức luận. Ngoài ra nhận thức luận còn được trình bày một các phổ cập hơn trong cuốn Tiểu luận về mọi siêu hình học tương lai có quyền được tự coi là khoa học(1783). Luân lý học của ông được trình bày trong cuốn Phê phán lý tính thực tiễn (1788). Cuốn Phê phán năng lực phán đoán (1790) dành chủ yếu cho những vấn đề mỹ học và cả vấn đề về tính có mục đích trong thế giới hữu cơ.
Theo Kant các triết gia từ xưa tới nay hình như quên mất vấn đề quan trọng là con người. Vì vậy Kant đặt nhiệm vụ hàng đầu cho mình là phải xác định bản chất của con người, toàn bộ các vấn đề của triết học phải được hướng vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học phải đem lại cho con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo. Để làm được điều đó thì triết học phải lý giải các vấn đề : Tôi có thể biết được cái gì?, Tôi cần phải làm gì?, Tôi có thể hy vọng cái gì?, Con người là gì?
Bước ngoặt trong sự phát triển triết học của Kant là cuộc gặp gỡ của ông với thuyết duy nghiệm của Hume. Ông nói: tôi công khai thú nhận, gợi ý của David Hume chính là điều lần đầu tiên đã đánh thức tôi ra khỏi giấc ngủ giáo điều nhiều năm về trước và đã vạch ra một hướng đi mới cho các tra cứu của tôi trong lĩnh vực tư duy triết học”. Kant từ chối theo con đường của Hume không chỉ vì nó có thể dẫn ông tới chủ nghĩa hoài nghi mà còn vì ông cảm thấy rằng mặc dù Hume đã đi đúng đường nhưng không hoàn thành nhiệm vụ giải thích làm thế nào đạt được tri thức. Vì vậy, Kant đã tìm cách xây dựng trên điều mà ông nghĩ là có giá trị cả trong chủ nghĩa duy lý lẫn trong chủ nghĩa duy nghiệm, và bác bỏ điều gì không thể bảo vệ trong hệ thống này. Ông bắt đầu một đường lối mới mà ông gọi là “triết học phê phán”.
Triết học phê phán của Kant chủ yếu phân tích khả năng của lý trí con người, được ông hiểu là “ một sự truy tìm phê phán khả năng của lý trí liên quan tới mọi nhận thức mà nó có thể cố gắng đạt tới một cách độc lập với mọi kinh nghiệm”. Đường lối của triết học phê phán của ông đặt ra là “năng lực hiểu biết và lý trí có thể biết những gì và bao nhiêu mà không cần kinh nghiệm?” chính vì vậy mà triết học lý luận của Kant chủ yếu đề cập tới nhận thức luận và logic học với mục đích xây dựng một nền tảng thế giới quan mới cho con người nhằm giải đáp cho câu hỏi “ con người có thể biết được cái gì?”.
Những nội dung chính của “Triết học lí luận”
Triết học lý luận là một trong ba bộ phận cơ bản của triết học Kant, nó giải quyết một trong ba vấn đề lớn được đặt ra trong hệ thống triết học của ông. Bộ phận này được ông trình bày một cách chi tiết và toàn diện trong tác phẩm “ Phê phán lý tính thuần tuý” được ông viết vào năm 1781. Tác phẩm này đã vạch ra giới hạn cho lý trí con người trong hoạt động nhận thức và nó chính là lời giải đáp cho một trong ba câu hỏi lớn mà Kant đã đặt ra trong hệ thống triết học của mình: Với tư cách là con người, tôi có thể biết gì? Câu hỏi này được trả lời trong “Triết học lý luận”. Ở đây, ông xác định những điều kiện và giới hạn nhận thức của con người, vạch ra rằng con người có tri thức về cái gì? Giới hạn của chúng ra sao, do đó địa vị con người được xác định trong hoạt động nhận thức như thế nào?
Trong hệ thống triết học của mình, Kant còn đặt ra hai câu hỏi lớn khác nằm trong hai bộ phận còn lại: với tư cách là con người, tôi cần phải làm gì?, được trả lời trong “ triết học thực tiễn”; với tư cách là con người, tôi có thể hy vọng gì?, được trả lời trong “triết học thẫm mỹ” và “ Mục đích luận”.
Kant được coi là người đầu tiên trong lịch sử loài người đã đứng ra nghiên cứu về khả năng cũng như giới hạn của tri thức con người. Ông phân biệt thế nào là tri thức và thế nào là suy tưởng. Ông cũng là người phân biệt hai loại tri thức của con người: tri thức thường nghiệm (tri thức kinh nghiệm cảm tính) và tri thức thực nghiệm (tri thức khoa học). Kant cho rằng mỗi tri thức bao giờ cũng là một thể thống nhất của quan niệm và cảm giác; trong đó quan niệm là khuôn hình hay hình thức của tri thức, còn cảm giác là vật liệu hay chất thể của tri thức. Thiếu cảm giác, những quan niệm của ta chỉ là những khuôn hình trống rỗng, không phải là tri thức; thiếu quan niệm thì những cảm giác của ta sẽ chỉ là những cảm giác mù, tức cảm giác mà không biết là cảm giác gì.
Khi giải quyết vấn đề khả năng tri thức của con người, Kant đã bắt đầu từ chổ phân biệt thế nào là tri thức khoa học và thế nào là tri thức kinh nghiệm cảm tính. Kant viết: “tất cả mọi tri thức của ta bắt đầu từ kinh nghiệm...nhưng nói như thế không có nghĩa là tri thức của ta hoàn toàn do kinh nghiệm đâu, vì trong tri thức của ta còn có phần trí năng không lệ thuộc vào kinh nghiệm”. Như vậy, giữa hai loại tri thức trên có một sự khác biệt lớn; một bên hoàn toàn thụ động nhưng bê kia lại rất năng động và luôn tìm kiếm những phương pháp mới.
Khi nói về tri thức kinh nghiệm cảm tính, ông cho rằng, kinh nghiệm cho ta biết sự vật thế này hay thế khác, nhưng không thể cho ta biết sự vật có thể là thế khác chăng. Do đó, tri thức kinh nghiệm cảm tính luôn có tính chất vụn vặt, lẽ tẻ và bó hẹp vào từng sự kiện mà ta đã kinh nghiệm. Trái lại, tri thức khoa học vượt tới mức phổ quát và tất yếu, bao trùm lên tất cả mọi trường hợp có thể xãy ra giống như vậy, đó chính là trí năng của con người, Kant gọi loại tri thức này là tri thức tiên thiên. Kant viết: “ tính chất tất yếu và tính chất phổ quát thực sự là những dấu hiệu chắc chắn của một tri thức tiên thiên và hai tính chất này không khi nào lìa nhau”. Từ quan niệm về tri thức nêu trên, Kant đã phê phán nghiêm khắc những quan niệm của các triết gia duy cảm và duy lý.
Như vậy, có thể thấy ở học thuyết của Kant, tri thức được cấu tạo bởi hai yếu tố không thể thiếu: quan niệm và cảm giác, không có yếu tố nào được coi là cần thiết hoặc quan trọng hơn yếu tố kia. Trên cơ sở đó ông đã dùng phương pháp phê bình để chứng minh sự khác biệt hoàn toàn giữa hai loại tri thức trên . Từ đó, ông đi đến khẳng định chỉ có tri thức khoa học mới có thể vạch ra được quy luật của thế giới hiện tượng.
Kant xác định đối tượng của “ triết học lý luận” không phải là bản thân thế giới tự nhiên như nó tồn tại, mà là hoạt động nhận thức của con người, là nghiên cứu những điều kiện và năng lực chủ thể của nhận thức. Phù hợp với đối tượng đó thì nhiệm vụ của triết học lý luận là vạch ra xem khoa học sản sinh ra tri thức như thế nào và từ đó xác định bản chất của con người trong lĩnh vực sinh hoạt tri thức.
Để giải quyết các vấn đề đó, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận thức của con người là thế giới, nhưng bản thân thế giới này được Kant chia làm hai, thế giới hiện tượng và thế giới “ vật tự nó”; trong đó thế giới hiện tượng là sản phẩm của sự tác động của thế giới “ vật tự nó” vào chủ thể, còn thế giới “ vật tự nó” là thế giới của những gì tồn tại do bản thân nó hay nó là nguyên nhân tồn tại của nó, nói cách khác đây là thế giới tồn tại khách quan đối với con người. Thế giới hiện tượng mang tính hữu hạn vì những sự vật của nó tồn tại trong không gian và thời gian, hơn nữa chúng có không gian và thời gian, do đó nó là cái tạm thời. Còn thế giới “ vật tự nó” là cái vô hạn, vĩnh viễn vì nó tồn tại ngoài không gian và thời gian, nó không có không gian và thời gian. Nếu thế giới hiện tượng tồn tại tuân theo quy luật, tất yếu thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại không tuân theo quy luật, tất yếu hay nói cách khác nó không bị chi phối bởi quy luật, tất yếu. Nếu thế giới hiện tượng mang tính nhân quả thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại ngoài liên hệ nhân quả. Từ đó Kant nhận xét, thế giới hiện tượng là thường nghiệm, là thế giới của những cái tương đối, còn thế giới “ vật tự nó” là siêu nghiệm, nó là thế giới của những cái tuyệt đối.
Khi bàn về quá trình nhận thức của con người, Kant cho rằng con người ta nhận thức và từ đó có tri thức bởi một năng lực tiên thiên mà ông gọi là lý tính lý luận (hay lý tính tiên thiên, lý tính thuần tuý). Ông coi lý tính là một năng lực tinh thần có sẵn ở con người từ đầu ngay khi mới sinh ra và có như nhau ở tất thảy mọi người. Ông gọi tính chất ấy là tiên thiên. Lý tính lý luận trong hoạt động nhận thức của con người có ba cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng. Mặc dù đối tượng nhận thức là thế giới nói chung nhưng ba cấp độ này có chức năng khác nhau và tương ứng với chúng có ba học thuyết nghiên cứu về những khả năng nhận thức của con người. Như vậy “ triết học lý luận” của Kant không phải nghiên cứu giới tự nhiên mà là nghiên cứu hoạt động nhận thức của con người với mục đích là xác lập các quy luật, giới hạn của lý tính con người.
Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức. Hệ thống của ông có ảnh hưởng đối với sự ra đời của triết học Mác, tạo nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho nhiều khuynh hướng triết học Phương tây hiện đại. Kant thực sự đã tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử triết học, đúng như ông muốn rằng cần phải làm một “cuộc cách mạng Côpecníc” cho triết học.
Khi xác định nhiệm vụ của “Triết học lý luận” là vạch ra xem khoa học sản sinh ra tri thức như thế nào, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận thức của con người là thế giới và bản thân thế giới này được Kant chia thành hai, thế giới “vật tự nó” mang tính siêu nghiệm và thế giới hiện tượng có tính thường nghiệm. Từ đó, Kant đi vào nghiên cứu quá trình nhận thức của con người và ông cho rằng trong hoạt động nhận thức, con người có được tri thức bởi một năng lực tiên thiên là lý tính lý luận với các cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng; và ông đi sâu phân tích cơ cấu bên trong của mỗi cấp độ để vạch ra công cụ và kết quả của quá trình nhận thức. Đó là cái nhìn xuyên suốt của Kant trong tiến trình triển khai “triết học lý luận” của mình; bao gồm trong đó sự xuất hiện lập trường duy tâm, nhị nguyên luận, bất khả tri cũng