Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn định kinh tế vĩ mô như:
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn định kinh tế, tiềm năng tài chính không được sử dụng và đầu tư vào sản xuất bởi vì lãi suất thấp thì công chúng sẽ không muốn gởi tiết kiệm mà sẽ hiện vật hóa dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ mạnh, hàng hóa tiêu dùng. Vì vậy, gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư, khan hiếm hàng hóa giả tạo, mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường hàng hóa.
Cầu về vốn vượt xa khả năng của các nguồn cung cấp nên các danh mục đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao phải hủy bỏ hoặc sử dụng vốn từ các thị trường ngầm.
Ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà nước luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất bao cấp dẫn tới luôn ỷ lại, không sản xuất và kinh doanh có hiệu quả.
Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thị trường tài chính có thể không có hoặc manh mún, phân tán và đầy rủi ro, lạm phát và tỷ giá biến động không thể kiểm soát được.
89 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4045 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hóa tài chính ở Việt Nam và thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
Tài chính kiềm chế.
Tài chính kiềm chế là gì?
Tài chính kiềm chế là một cơ chế tài chính được đặc trưng hóa bởi sự can thiệp quá mức của nhà nước vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Trong đó, nhà nước sẽ ấn định những mức lãi suất trần, trực tiếp điều tiết quá trình phân phối tín dụng bằng các quyết định hành chính nhiều hơn là thông qua cơ chế thị trường, ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước và đặt ra các tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao và kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn trong và ngoài nước.
Hậu quả của tài chính kiềm chế.
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn định kinh tế vĩ mô như:
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn định kinh tế, tiềm năng tài chính không được sử dụng và đầu tư vào sản xuất bởi vì lãi suất thấp thì công chúng sẽ không muốn gởi tiết kiệm mà sẽ hiện vật hóa dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ mạnh, hàng hóa tiêu dùng. Vì vậy, gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư, khan hiếm hàng hóa giả tạo, mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường hàng hóa.
Cầu về vốn vượt xa khả năng của các nguồn cung cấp nên các danh mục đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao phải hủy bỏ hoặc sử dụng vốn từ các thị trường ngầm.
Ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà nước luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất bao cấp dẫn tới luôn ỷ lại, không sản xuất và kinh doanh có hiệu quả.
Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thị trường tài chính có thể không có hoặc manh mún, phân tán và đầy rủi ro, lạm phát và tỷ giá biến động không thể kiểm soát được.
Tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính là gì?
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Tự do hóa tài chính được chia làm hai cấp độ:
Tự do hóa tài chính nội địa: Bằng cách xóa bỏ sự kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng
Tự do hóa tài chính quốc tế: Loại bỏ kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý ngoại hối.
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội.
Lợi ích của tự do hóa tài chính
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động tài chính cũng giống như các hoạt động trao đổi mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu nhập và sự tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số khía cạnh sau:
Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
Mặt trái của tự do hóa tài chính
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá tài chính cũng cố những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều kiện xu thế tự do hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban dầu. Những hạn chế của tự do hoá tài chính thông thường được nhìn nhận trên hai gốc độ:
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
Thứ hai: Tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành thực hiện những mục tiêu của nhà nước vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Lộ trình tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính được tiến hành sau tự do hóa thương mại. Lộ trình tự do hóa tài chính trải qua những bước sau:
Bước 1: Cải tiến và hiện đại hóa ngân hàng, đây là điều kiện cần thiết để phát triển cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính.
Bước 2: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước.
Tự do hóa lãi suất là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, bản chất của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều hành theo định hướng.
Tự do hóa lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các khoản nợ khó đòi, tiến hành tư nhân hóa một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, áp dụng các chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh trong khu vực ngân hàng.
Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá giao động trong một khoảng giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của ngân hàng trung ương.
Bước 3: Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế phân bổ quota và những rào cản khác trong giao dịch vãng lai.
Bước 4: Từng bước tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn.
Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế đối với các giao dịch này như xóa bỏ hoàn toàn những quy định hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn về nước với các khoản đầu tư dài hạn-ngắn hạn thông qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cho các doanh nghiệp trong nước tự do tiếp cận với các nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành cổ phiếu – trái phiếu.
Đối với người dân tự do hóa nguồn vốn cho phép họ thực hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia các hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao.
Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hưu các công ty khác nhau, các dòng vốn được tự do di chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang những nơi có tỷ suất sinh lợi cao.
Điều kiện để cho tự do hóa tài chính thành công
Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần từng bước các giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất yếu. Việt Nam muốn hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải linh hoạt - ổn định đáng tin cậy. Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là:
Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao.
Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế.
Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả.
Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả.
Không có khoản cho vay mang tính chất chính trị và lạm dụng hệ thống tài chính.
Một Chính Phủ triệt để chống tham nhũng và lãng phí.
Tính minh bạch trong công bố thông tin.
CHƯƠNG 2
CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
THEO HƯỚNG TỰ DO HÓA
Chính sách tái cấu trúc nền kinh tế
Tự do hóa tài khoản vãng lai
Trong hoạt động ngân hàng, một tài khoản vãng lai là một tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nào đó, với mục đích cung ứng một cách nhanh chóng và an toàn phương tiện tiếp cận thường xuyên tới các món tiền gửi theo nhu cầu, thông qua một loạt các kênh khác nhau. Vì thế, tài khoản này có tên khác là Tài khoản thanh toán.
Như vậy, nội dung rất quan trọng để đạt được tự do hóa (tài khỏan) giao dịch vãng lai là đồng tiền Việt Nam phải được thừa nhận trong các giao dịch quốc tế, có nghĩa là VND phải được chấp nhận ở trong nước và trên phạm vi quốc tế. Theo đó, đồng tiền tự do chuyển đổi gắn chặt với sức mạnh của nền kinh tế, đó phải là nền kinh tế có sức cạnh tranh cao và tính ổn định kinh tế vĩ mô bền vững.
Theo cách hiểu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền của một nước hội viên mà IMF nhận thấy đồng tiền đó được sử dụng rộng rãi để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt.
Mặt khác, để tự do chuyển đổi, trước hết đồng tiền đó phải có tính chuyển đổi, có nghĩa là đồng tiền đó có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ mà không có bất kỳ hạn chế nào.
Thông thường, người ta nói đến mức độ chuyển đổi của đồng tiền theo giao dịch phải gắn với ba nội dung: một là, giao dịch đó phải được phép; hai là, không có hạn chế nào trong việc chuyển đổi (mua bán ngoại tệ) để phục vụ mục đích thanh toán; ba là, ngoại tệ phải được đáp ứng theo yêu cầu của người mua, phục vụ thanh toán cho giao dịch đó. Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp giao dịch đó là giao dịch được phép, nhưng việc mua ngoại tệ để thanh toán cho giao dịch đó bị hạn chế. Trường hợp này, khả năng chuyển đổi của đồng tiền đã bị hạn chế.
Thực tế, hoạt động ngoại hối được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Ngoại hối và được quy định chi tiết thi hành theo Nghị định 160 của Chính phủ, ban hành ngày 28/12/2006 với Điều 5 quy định tự do hoá với giao dịch ngoại hối vãng lai: Các giao dịch thanh toán và chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai của người dân được tự do theo các nguyên tắc sau: Được mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các nhu cầu thanh toán và chuyển tiền. Có trách nhiệm xuất trình các chứng từ theo quy định của tổ chức tín dụng khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài. Khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các giao dịch vãng lai, người dân không phải xuất trình các chứng từ liên quan đến việc xác nhận hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước Việt Nam.
Chính vì vậy, có thể nói rằng việc tự do hóa giao dịch vãng lai có ảnh hưởng lớn tới hoạt động doanh nghiệp và đại bộ phận dân cư. Cụ thể là việc mua ngoại tệ phục vụ nhu cầu cá nhân như: du lịch, khám chữa bệnh, du học hay của các doanh nghiệp khi thanh toán xuất nhập khẩu, vay tín dụng thương mại nước ngoài ngắn hạn sẽ không nhiều thủ tục về giấy phép như hiện nay. Cũng theo quy định trong Pháp lệnh Ngoại hối, người dân và các tổ chức kinh tế còn được trực tiếp vay trả nợ nước ngoài theo nguyên tắc tự vay tự chịu trách nhiệm.
Các giao dịch vãng lai bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; các khoản vay tín dụng thương mại và ngân hàng ngắn hạn; các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng...
Khi xuất nhập cảnh, các cá nhân sẽ không phải khai báo nếu mang ngoại tệ hay đồng VN bằng tiền mặt dưới hạn mức qui định (hạn mức đang áp dụng hiện nay là 7.000 USD)... Trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài muốn mua bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và góp vốn, mua cổ phần tại VN, phải mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng VN tại ngân hàng...
Hiện trạng tự do giao dịch vãng lai tại Việt Nam:
Thực tế trong những năm qua, người dân có nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ mạnh như USD hoặc Euro vẫn tìm điểm đến là các tiệm vàng. Theo quy định, người dân muốn mua USD tại các ngân hàng hay các quầy thu đổi ngoại tệ chính thức phải xuất trình đủ các loại giấy tờ chứng thực việc cần mua USD cho việc chuyển ra nước ngoài nộp học phí hay đi du lịch... Do đó, trong trường hợp người dân muốn mua USD để tích trữ thì họ không thể nào tìm đến các điểm giao dịch ngoại hối chính thức. Khi đó họ sẽ tìm đến các điểm mua bán ngoại tệ không hợp pháp. Ở đây họ có thể dễ dàng mua bán, trao đổi bất kỳ loại ngoại tệ thông dụng nào mà không cần xuất trình bất kỳ loại giấy tờ nào.
Hạn chế khi kết chuyển ngoại hối: Khi xuất nhập cảnh, các cá nhân sẽ không phải khai báo nếu mang ngoại tệ hay đồng VN bằng tiền mặt dưới hạn mức qui định (hạn mức đang áp dụng hiện nay là 7.000 USD)... Trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài muốn mua bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và góp vốn, mua cổ phần tại VN, phải mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng VN tại ngân hàng...
Tự do hóa tài khoản vốn
Tự do hóa tài khoản vốn là việc cho tự do tiến hành chuyển đổi các tài sản tài chính trong nước thành tài sản tài chính ở nước ngoài và ngược lại theo tỷ giá hối đoái do thị trường quy định.
Ở nhiều nước đang phát triển, những chuyển đổi như vậy thường bị hạn chế nghiêm ngặt bởi hàng loạt quy chế. Mục đích của sự hạn chế này là để giữ tiết kiệm ở lại trong nước và phục vụ cho đầu tư trong nước, tránh để nền kinh tế của đất nước bị ảnh hưởng bởi những cú sốc từ bên ngoài. Tuy nhiên, từ thập niên 1970 và thập niên 1980, ngày càng nhiều quốc gia nhận ra rằng chỉ tiết kiệm trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu tài chính cho đầu tư trong nước. Vì thế, họ đã huy động cả tiết kiệm ngoài nước dưới hình thức cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp. Khi chiều chuyển đổi tài sản tài chính ở nước ngoài thành tài sản tài chính ở trong nước được chấp nhận, tự nhiên các nước này bị đòi hỏi phải chấp nhận cả chiều ngược lại với lý do là để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây chính là tự do hóa tài khoản vốn.
Tự do hóa tài khoản vốn làm cho vốn tự do luân chuyển qua biên giới quốc gia. Nó giúp cho nền kinh tế quốc gia trở nên linh hoạt hơn, hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Song, nó cũng làm cho nền kinh tế quốc gia trở nên dễ bị tổn thương hơn.
Tại Việt Nam, tự do hóa tài khoản vốn đang từng bước thực hiện là một trong bốn nội dung của Lộ trình Hội nhập Tiền tệ và Tài chính khu vực ASEAN được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 7 vào tháng 8/2003 với mục tiêu là tự do hóa hơn các luồng chu chuyển vốn vào năm 2020. Trên cơ sở đó, Nhóm Công tác về tự do hoá tài khoản vốn (cấp kỹ thuật) đã được thành lập để triển khai các kế hoạch đã được đề ra trong Lộ trình Tự do hoá tài khoản vốn.
Tự do hóa tài khoản vốn nhằm tạo thuận lợi và tự do hóa hơn nữa các luồng luân chuyển vốn được đề ra trong Kế hoạch Tổng thể Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC Blueprint), theo đó, tự do hóa các luồng chu chuyển vốn được thực hiện theo các nguyên tắc: (i) tự do hóa tài khoản vốn phù hợp với điều kiện thực tế và mức độ sẵn sàng của các nước thành viên; (ii) cho phép phòng vệ chính đáng trước các nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô và rủi ro hệ thống; và (iii) đảm bảo chia sẻ lợi ích giữa tất cả các nước ASEAN.
Trên cơ sở các nguyên tắc định hướng nêu trên, các nước thành viên sẽ tiến hành tự do hoá theo bốn bước sau: (i) nới lỏng hoặc loại bỏ các qui định liên quan đến giao dịch vãng lai (2008-2015); áp dụng Điều VIII của IMF về loại bỏ hạn chế đối với các thanh toán và chuyển tiền để thực hiện các giao dịch vãng lai quốc tế vào năm 2011; (ii) đánh giá và dần dần nới lỏng các qui định về chuyển tiền quốc tế liên quan đến FDI (2008-2015); (iii) đánh giá và dần dần nới lỏng các qui định về các luồng vốn đầu tư gián tiếp; đặc biệt các qui định về nợ và cổ phần (2009-2015); và (iv) đánh giá và dần dần nới lỏng các qui định về các luồng vốn khác, đặc biệt cả qui định về vay nợ nước ngoài dài hạn của người cư trú (2011-2015).
Tiến trình thực hiện và định hướng trong thời gian tới
Theo lộ trình hội nhập tài chính tiền tệ, nguyên tắc tự do hoá tài khoản vốn phải đảm bảo quá trình tự do hoá có trật tự, phù hợp với kế hoạch của từng quốc gia, từng nước thành viên sẽ thực hiện quá trình tự do hoá tài khoản vốn theo phương thức là tổng hợp quy chế hiện hành về tài khoản vốn và tự đưa ra một chương trình tự do hoá các khoản mục trong tài khoản vốn.
Trên cơ sở đó, hàng năm các nước sẽ báo cáo, trao đổi về các biện pháp, chính sách tự do hoá các khoản mục của nước mình. Điều đó sẽ giúp Việt nam cũng như các nước cập nhật được các biện pháp, chính sách về việc loại bỏ dần các rào cản đối với các luồng luân chuyển vốn của từng nước trong khu vực.
Chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng mạnh cả về qui mô và tốc độ
Mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Trong đó, cần xác định được động cơ và nguyên nhân của luồng vốn vào, cơ cấu luồng vốn, tác động của nó đến nền kinh tế và hệ thống tài chính.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang thực hiện tự do hóa tài khoản vốn một cách có trật tự:
Thu hút FDI và mở cửa ngoại thương, nới lỏng kiểm soát lợi nhuận chuyển ra
Nhà đầu tư được phép mua trái phiếu chính phủ với khối lượng và giá trị không hạn chế, mua 49% cổ phiếu doanh nghiệp và 30% cổ phiếu ngân hàng.
Tuy nhiên, do độ mở của nền kinh tế lớn, Việt Nam cũng chịu những tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào trong như áp lực lạm phát, thâm hụt cán cân vãng lai... Do đó, trước những biến động của môi trường kinh tế trong nước và toàn cầu, trong thời gian tới, Việt Nam cần có những đánh giá thận trọng đối với việc thực hiện lộ trình tự do hóa tài khoản vốn nhằm đảm bảo việc thực hiện các cam kết của khu vực và quốc tế, đồng thời đảm bảo duy trì được các mục tiêu của các chính sách tài khóa, tiền tệ và tỷ giá.
Theo lộ trình đã được đề ra trong AEC, trong thời gian tới Việt Nam loại bỏ dần các rào cản đối với các luồng luân chuyển vốn trong khu vực theo lịch trình sau: (i): Rà soát, đánh giá về các rào cản đối với các luồng vốn gián tiếp (2009-2010); (ii) Dỡ bỏ dần các rào cản đã được xác định đối với các luồng luân chuyển vốn: Luồng vốn FDI, bắt đầu dỡ bỏ từ năm 2010; Luồng vốn đầu tư gián tiếp, bắt đầu dỡ bỏ từ năm 2011; Luồng vốn khác, bắt đầu dỡ bỏ từ năm 2012. Tuy nhiên, để tự do hóa an toàn và có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, cần phải hiểu và thi hành những chính sách cần thiết để tạo tiền đề cho tự do hóa xảy ra một cách trôi chảy.
Kinh nghiệm tự do hóa tài khoản vốn ở các nước trên thế giới và quá trình tự do hóa đang diễn ra ở Trung Quốc, nước láng giềng với nhiều điểm tương đồng về thể chế chính trị và kinh tế với Việt Nam:
Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 : xem xét lại những vấn đề liên quan đến tự do hóa tài khoản vốn với vai trò trọng yếu của hệ thống tài chính được chế tài tốt, quản lý tốt, và tư bản hóa tốt càng được coi trọng hơn. Các nhà làm chính sách đã nhìn nhận đúng đắn hơn rằng tự do hóa tài khoản vốn phụ thuộc vào một loạt các chính sách hữu hiệu.
Tự do hóa tài khoản vốn thường xuyên gây ra các cuộc khủng hoảng ở cả các nền kinh tế phát triển và đang phát triển (ở khu vực Scandinavia, Mỹ Latinh, và Đông á), tự do hóa tài khoản vốn đã hấp thu một lượng vốn chảy vào nền kinh tế quá lớn so với khả năng hấp thụ của chúng một cách an toàn. Thời gian trôi qua, vốn chảy vào biến thành vốn chảy ra, để lộ ra một hệ thống tài chính què quặt.
Nhờ có tăng trưở