Đề tài Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, là điều kiện tiên quyết để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyên tắc xây dựng Đảng dựa trên hệ thống các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những nguyên tắc đó là: tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là nguyên tắc, chế độ thường xuyên trong sinh hoạt đảng. Tự phê bình và phê bình là nêu ưu điểm, vạch rõ khuyết điểm của tổ chức đảng, của cấp uỷ và cán bộ, đảng viên, qua đó tìm biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, giúp tổ chức và mỗi người tiến bộ. Tự phê bình và phê bình chính là nhằm củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên tham gia xây dựng nghị quyết và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết của đảng bộ, chi bộ và nhiệm vụ của đơn vị. Thực chất tự phê bình và phê bình chính là giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức đảng dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc và điều lệ của Đảng, trong mối quan hệ của những người đồng chí cùng mục đích, lý tưởng. Tự phê bình và phê bình vừa mang tính cách mạng và khoa học, vừa mang tính nhân văn, thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện. Do đó, tự phê bình và phê bình đòi hỏi tính đảng, tính nguyên tắc cao, phải khách quan, trung thực, thẳng thắn, chân thành, công khai, có lý, có tình. Tự phê bình và phê bình còn có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng.

doc19 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 14085 | Lượt tải: 8download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam Tr Mở đầu 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình 3 1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tự phê bình và phê bình 3 1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình 8 2. Nhận thức và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tự phê bình và phê bình 17 2.1. Tự phê bình và phê bình trong quá trình xây dựng đảng 17 2.2. Ý nghĩa nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng đảng hiện nay 22 Kết luận 24 MỞ ĐẦU Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, là điều kiện tiên quyết để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyên tắc xây dựng Đảng dựa trên hệ thống các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những nguyên tắc đó là: tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là nguyên tắc, chế độ thường xuyên trong sinh hoạt đảng. Tự phê bình và phê bình là nêu ưu điểm, vạch rõ khuyết điểm của tổ chức đảng, của cấp uỷ và cán bộ, đảng viên, qua đó tìm biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, giúp tổ chức và mỗi người tiến bộ. Tự phê bình và phê bình chính là nhằm củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ sáng tạo của mọi cán bộ, đảng viên tham gia xây dựng nghị quyết và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết của đảng bộ, chi bộ và nhiệm vụ của đơn vị. Thực chất tự phê bình và phê bình chính là giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức đảng dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc và điều lệ của Đảng, trong mối quan hệ của những người đồng chí cùng mục đích, lý tưởng. Tự phê bình và phê bình vừa mang tính cách mạng và khoa học, vừa mang tính nhân văn, thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện. Do đó, tự phê bình và phê bình đòi hỏi tính đảng, tính nguyên tắc cao, phải khách quan, trung thực, thẳng thắn, chân thành, công khai, có lý, có tình. Tự phê bình và phê bình còn có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng. 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tự phê bình và phê bình Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khảng định: mọi sự vật hiện tượng trên thế giới cũng như trong đời sống xã hội đều vận động và phát triển trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị, một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội, do vậy Đảng cũng tồn tại, vận động phát triển theo quy luật sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, tự phê bình và phê bình trong Đảng là biểu hiện của quy luật đó và là đòi hỏi tất yếu khách quan. Bản thân Đảng trong suốt cả quá trình hoạt động lãnh đạo sự nghiệp cách mạng cả khi chưa có chính quyền cũng như khi trở thành đảng cầm quyền, có nhiều vấn đề thực tiễn đạt ra mang tính khó khăn, phức tạp, nhiều vấn đề mới nảy sinh, từng cán bộ, đảng viên không thể nắm, nhận thức đầy đủ và sâu sắc ngay những vấn đề đó, quá trình tham gia hoạt động không thể tránh vấp ngã, sai lầm, khuyết điểm, do đó phải tiến hành công tác tự phê bình và phê bình. Mác Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của Đảng cộng sản. Ăngghen nhấn mạnh: Việc Đảng phê bình các hoạt động đã qua của mình là việc tuyệt đối cần thiết, thông qua đó Đảng học cách hoạt động tốt hơn. Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác-Ăngghen coi tự phê bình và phê bình là quy luật bất di bất dịch về sự phát triển của Đảng cách mạng, theo ông Đảng phải luôn tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai lầm, khuyết điểm, phân tích rõ nguyên nhân và tìm cách sữa chữa, coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một đảng có thật sự là một Đảng Mác xít chân chính hay không. Lênin cho rằng, trong quá trình lãnh đạo, Đảng có khuyết điểm cũng là điều bình thường, điều quan trọng là có thái độ đúng đắn với sai lầm của mình hay không. Người yêu cầu, trước những sai lầm của mình, Đảng phải: công khai thừa nhận sai lầm, phân tích hoàn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu những biện pháp để sữa chữa sai lầm, người chỉ rõ: “và nếu một đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chẩn đoán bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó sẽ không xứng đáng được người ta tôn trọng” đó là thái độ nghiêm túc của đảng, chỉ có đảng nghiêm túc như vậy mới là Đảng Mác xít chân chính. Đối với Đảng viên Cộng sản Lênin đòi hỏi rằng, trước sai lầm của mình, người đảng viên phải thực hiện tốt tự phê bình, người nói: “Người thông minh không phải là không phạm sai lầm….người nào phạm sai lầm mà không nặng lắm và biết sửa một cách dễ dàng và nhanh chóng, thì người đó là người thông minh”. Đối với Đảng cũng như các đảng viên, không có thái độ đúng đắn đối với khuyết điểm thì chỉ có đi đến chỗ vi phạm những khuyết điển lớn hơn mà thôi, Lênin đã khẳng định điều đó khi nói: “cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa nó, “đưa nó đến chỗ tột cùng” thì từ một sai lầm nhỏ, người ta luôn luôn có thể làm cho nó thành một sai lầm lớn ghê gớm”. Tuy nhiên tự phê bình và phê bình theo quan điểm của Lênin không phải là theo khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội, “tả khuynh”, theo lối cục bộ, bè phái gây chia rẽ, mất đoàn kết. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái lợi dụng cái gọi là: “tự do phê bình” để phá hoại tổ chức Đảng, người phê phán những người Cộng sản “tả khuynh” đã không có thái độ nghiêm túc trước những sai lầm của mình, cho nên họ không phải là đảng của giai cấp, không phải là đảng của quần chúng, chỉ là những nhóm nhỏ mang tính bè phái, ông khẳng định: “Ai không cố ý nhắm mắt lại thì không thể không thấy rằng, khuynh hướng “phê bình” mới trong chủ nghĩa xã hội, chẳng qua chỉ là một loại hình mới của chủ nghĩa cơ hội mà thôi...“tự do phê bình” là tự do của khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong Đảng Dân chủ-xã hội, là tự do biến Đảng Dân chủ-xã hội thành một Đảng Dân chủ cải lương, là tự do đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa xã hội”, rằng: “Vấn đề đặt ra hiện nay là: ...nhiệm vụ của những người muốn đánh đổ chủ nghĩa cơ hội một cách thực sự... cần đấu tranh tích cực chống “phái phê bình” hợp pháp, nó đã làm truỵ lạc đầu óc con người đến cùng cực”, có một thực tế rõ ràng là kể từ khi ra đời tồn tại và phát triển đến nay các Đảng cộng sản chân chính và những người Mác xít luôn phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái phản động, đây cũng được xem như là vấn đề có tính quy luật của Đảng cộng sản . Trong bản thân nội bộ Đảng luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn là một tất yếu khách quan, song vấn đề cần phải được hiểu là những mặt đối lập, những mâu thuẫn ấy trong Đảng( mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu; giữa phẩm chất, trình độ, năng lực còn hạn chế của đội ngũ cán bộ, Đảng viên so với yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ ngày càng cao, mâu thuẫn giữa các ý kiến trái ngược nhau trong Đảng, giữa hình thức, phương pháp lãnh đạo cũ của Đảng với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới..), không phải là mâu thuẫn đối kháng mà những mâu thuẫn đó được giải quyết thông qua tự phê bình và phê bình. Như vậy mục đích của đấu tranh phê và tự phê bình là nhằm giải quyết mâu thuẫn, là sự góp ý, nói thẳng, nói thật, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, đấu tranh chống những quan điểm sai trái...tạo nên sự hiểu nhau hơn, đoàn kết thống nhất hơn, để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau cùng tiến. Cần tránh lợi dụng tự phê bình và phê bình để chỉ trích cá nhân, nói xấu, đả kích lẫn nhau mà xem đó là chế độ sinh hoạt bình thường, thường xuyên trong Đảng. Đấu tranh phê bình và tự phê bình được diễn ra trên tất cả các mặt hoạt động của Đảng, và yêu cầu thực hiện đối với mọi cán bộ đảng viên, bao gồm tự phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với cấp trên và cùng cấp, được thể hiện qua các hình thức như: hội nghị chi bộ, đảng bộ qua các thời kỳ, các đại hội đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, báo cáo quý, tháng…của cấp dưới lên cấp trên, báo cáo nhiệm kỳ đại hội của cáp trên đối với cấp dưới, qua các phương tiện thông tin đại chúng…Quá trìnhthực hiện công tác tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính khách quan, chân thành, cởi mở, phảI cứng rắn về nguyên tắc, mêm dẻo, khéo léo về cách thức, cần xác định xem nên tiến hành vào thời gian nào, nên nói những gì, bằng cánh nào, nói đến mức độ nào…làm tốt điều này làm tăng chất lượng của tự phê bình và phê bình, Lênin đã dạy: “chính sách thì không nên có thái độ thẳng băng và không nên kịch liệt, không nên cố chấp nếu không cần thiết”6. Tiến hành công tác này còn cần phải về mặt thể hiện rõ những đặc tính cơ bản và tuân thủ những đòi hỏi bắt buộc như phải bảo đảm tính đảng: điều này đòi hỏi thực hiện tự phê bình và phê bình phải đứng vững trên cơ sở chủ nghĩa Mác, quan điểm chủ trương chính sách của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tư tưởng và hành động sai trái, mặt khác không thụ động, bàng quang trước sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí của tập thể…Trong: “Dự thảo lời kêu gọi của ban chấp hành trung ương và của ban biên tập cơ quan ngôn luận trung ương gửi các uỷ viên thuộc phái đối lập” và: “Bản tuyên bố không đưa ra”, được viết khi bọn Mensêvích chưa chiếm được báo “Tia lửa”, Lênin đã kịch liệt phê phán và kiên quyết phản đối những thủ đoạn đấu tranh không mang tinh thần của Đảng, những thủ đoạn đấu tranh không thể dung thứ được, mà bọn thủ lĩnh của phái Mensêvích đã áp dụng, như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô chính phủ... “Những tổ chức ngoài miệng thì thừa nhận báo “Tia lửa” là cơ quan lãnh đạo, nhưng trong thực tế lại theo đuổi những kế hoạch riêng của mình và tỏ rõ là thiếu vững vàng về mặt nguyên tắc”, theo người: “Thiết tưởng, phải chọn lấy một trong hai điều sau đây: hoặc là phải bày tỏ ý kiến thẳng thắn và dứt khoát thực chất của vấn đề trước toàn thể đại hội, hoặc là không bày tỏ ý kiến gì cả”. Quá trình tự phê bình và phê bình còn phải tuân thủ cương lĩnh, đường lối, chính sách, tôn trọng bảo vệ lợi ích của Đảng và phải được tiến hành trong tổ chức Đảng, không được lợi dụng tự phê bình và phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội bộ, gây chia rẽ, mất đoàn kết đi đến việc phá vỡ sự tập trung thống nhất trong Đảng, theo Lênin: “Toàn bộ công tác cả chúng ta, tất cả sự nỗ lực của chúng ta sẽ dùng để làm gì, khi mà kết quả bao giờ cũng chỉ là cuộc đấu tranh để gây ảnh hưởng ấy, chứ không phải là để hoàn toàn tranh thủ và củng cố ảnh hưởng đó”. phê bình và tự phê bình theo quan điểm của Lênin còn cần cụ thể thiết thực và kịp thời, điều này đòi hỏi sự đấu tranh không phải mang tính chất chung, trung bình chủ nghĩa mà cần có nội dung, địa chỉ rõ ràng, chỉ ra được, cái đúng, chỗ sai, nguyên nhân của những vấn đề đó và phương hướng khắc phục, phải gắn với điều kiện cụ thể của từng tổ chức đảng và mọi cán bộ đảng viên, “Khi các đồng chí nghe thấy một lời phê phán như thế, một sự phê phán không có nội dung, một sự phê phán để mà phê phán thì các đồng chí hãy đề phòng”, người còn nói: “Tự phê bình là một điều rất hay, nhưng khi tất cả chúng ta đã tán thành điều đó, thì sẽ là rất hay nếu chúng ta chú ý cả đến vấn đề nội dung phê bình nữa”. Tính cụ thể, thiết thực của tự phê bình và phê bình của Đảng còn thể hiện ở việc hướng vào việc kiểm điểm, phân tích, đánh giá, phê phán những vấn đề cấp bách trước mắt của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là hướng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chức trách, nhiệm vụ và việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất năng lực, phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên. Thiết thực, cụ thể phải luôn gắn với tính kịp thời, bởi vì nếu phê bình và tự phê bình được tiến hành một cách kịp thời sẽ hạn chế được sai lầm, khuyết điểm, không để chúng tích tụ lại làm trầm trọng thêm khuyết điểm, đồng thời ngăn chặn không cho những thiếu sót sai lầm của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên bị tái diễn, kéo dài, điều quan trọng hơn là giúp uốn nắn ngay những lệch lạc, kích thích tính sáng tạo, động viên thúc đẩy các tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên hoàn thành thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra. 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình Vấn đề tự phê bình và phê bình đã được Hồ Chí Minh đề cập rất sâu sắc trong tác phẩm "sửa đổi lối làm việc" và nhiều bài viết cho chuyên mục Sửa đổi lối làm việc của báo Sự thật, trong các bài viết đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng, và trong hầu hết các bài nói, bài viết về xây dựng Đảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình không những là vũ khí, là "luật" trong xây dựng tổ chức mà còn được nâng lên tầm nghệ thuật trong công tác xây dựng Đảng. Phê bình là gì và tự phê bình là gì? Đôi khi, Hồ Chí Minh dùng cách gọi "tự kiểm điểm và kiểm điểm" hoặc "tự sửa chữa" và "giúp đồng chí mình sửa chữa", "tự xét và xét đồng chí mình" để nhấn mạnh ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong việc khắc phục khuyết điểm. Nhưng quan niệm về tự phê bình và phê bình có ý nghĩa bao quát rộng hơn. Theo Hồ Chí Minh, "Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của bản thân mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau". Điều đó có nghĩa là tự phê bình và phê bình không phải chỉ vạch ra khuyết điểm mà phải nêu cả ưu điểm; nêu ưu điểm trước, vạch khuyết điểm sau; nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm phải đi đôi với nhau, không coi nhẹ ý nghĩa của một mặt nào. Điều đó biểu hiện rõ tính nhân văn và tính khoa học - nét đặc sắc trong quan niệm về tự phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh. Thứ tự, phương pháp tự phê bình và phê bình là: nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của mình trước và nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của đồng chí mình sau; dù là "xét", "kiểm điểm" hay "phê bình" người khác thì người có khuyết điểm đó cũng là đồng chí mình chứ không phải kẻ thù hay đối địch. Cho nên, một mặt là để sửa chữa cho nhau, một mặt là để khuyến khích nhau, "bắt chước" nhau, cùng tiến bộ mãi. Người có ưu điểm thì phải cố gắng phát huy, vươn lên không ngừng; người có khuyết điểm, bị phê bình thì phải vui lòng nhận rõ để sửa chữa. Tự phê bình và phê bình sẽ không gây nản chí hoặc oán ghét.Những biểu hiện tiêu cực như: chỉ thiên về vạch khuyết điểm của người khác theo kiểu "bới lông, tìm vết" để tìm cách hạ bệ nhau, làm giảm uy tín của nhau, chỉ thiên về phê bình người khác mà không nghiêm khắc tự phê bình, chỉ nhấn mạnh ưu điểm khi "phê bình cấp trên" theo kiểu tâng bốc, nịnh hót... thực chất là biểu hiện cơ hội trong tự phê bình và phê bình, hoàn toàn trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình. Theo Hồ Chí Minh: tự phê bình và phê bình có vị trí, ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết, với mỗi cán bộ, đảng viên, tự phê bình và phê bình như mỗi ngày soi gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể. Đảng là một thực thể chính trị xã hội, Đảng tồn tại trong xã hội thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng viên có tốt, chi bộ mới tốt và Đảng mới vững. Vì vậy, tự phê bình và phê bình đối với cán bộ, đảng viên hàng ngày là rất thiết thực, thường xuyên, bám sát trong mỗi hoạt động và không thể thiếu trong nếp sống "văn minh Cộng sản"; là vũ khí sắc bén cần thiết cho sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên như cơm ăn, nước uống, như không khí để thở hàng ngày. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên: "luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình". Hồ Chí Minh chỉ rõ: tự phê bình và phê bình là phương tiện quan trọng nhất để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống nhất rất cao, là đoàn kết thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, từ trong lý tưởng đến hành động hàng ngày. Tự phê bình và phê bình sẽ giúp gột rửa, lọc bỏ những sai lệch, những bất đồng và trên cơ sở đó tạo nên sự kết dính, gắn bó hữu cơ trong nội bộ Đảng. Người viết: “muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Đối với tổ chức đảng: tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất để chữa nhiều thứ chứng bệnh, để bồi bổ cho cơ thể của Đảng ngày càng thêm cường tráng. Theo Hồ Chí Minh, trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng không tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm trong quá trình hoạt động. "Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang. Nhưng, nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa. Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều"."Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm dồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa". Trong Đảng có nhiều khuyết điểm, cũng như cơ thể con người mang bệnh trong mình. Muốn trị bệnh phải uống thuốc. Phương thuốc hiệu quả là tự phê bình và phê bình. Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ nguồn gốc của những "tính xấu", của những khuyết điểm, của những chứng bệnh trong Đảng, để trên cơ sở đó, có phương pháp đúng sửa chữa khuyết điểm. Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách, rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại; song trong Đảng ta cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây, ngấm vào Đảng. "Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa,… Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ, họ mang từ xã hội vào Đảng". Hồ Chí Minh còn phân tích rất sâu sắc "các hạng đảng viên": Đảng ta có rất đông đảng viên. Phần đông cố nhiên đã hiểu biết vì dân, vì nước mà vào Đảng. Nhưng cũng có phần vì lẽ khác mà theo Đảng. Có người tưởng vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào Đảng mong làm chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào, v.v.. Đảng phải cảm hóa họ, dạy dỗ họ, nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ trách của họ lên dần dần, để họ có thể trở thành những "người chiến sĩ khá". Biện pháp thiết thực là thường xuyên tự phê bình và phê bình ráo riết. Khái quát những vấn đề đã nêu ở trên, Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, đây là nguyên tắc có ý nghĩa sâu sắc bao trùm nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê bình". Tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh xác định là một trong 12 điều "Tư cách của Đảng chân chính cách
Luận văn liên quan