Văn chương có quan hệ đến thế vận, việc thi cử cốt chọn lựa kẻ thực tài. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Tổ tiên ta bắt đầu học chữ Hán ngay từ đầu thời Bắc thuộc, việc giáo dục bắt đầu có tổ chức từ thời Sĩ Nhiếp (Theo Đại Việt sử kí toàn thư, Sĩ Nhiếp được xem là Nam giao học tổ của người Việt). Song phải từ khi giành quyền tự chủ, việc học hành thi cử để đào tạo và tuyển chọn nhân tài mới thực sự chú trọng ở nước ta.
Các triều Ngô và triều Đinh, trị vì nước không lâu, lại thêm việc củng cố võ bị để bảo vệ độc lập đặt ra cấp thiết hơn nên việc giáo dục học tập bấy giờ chủ yếu diễn ra ở trong chùa chiền. Đến thời Lý việc đặt khoa cử diễn ra, rõ rệt ở thời Trần, Lê và sôi nổi nhất vào thời Nguyễn. Trong khoảng thời gian đó, việc học hành khoa cử có nhiều thay đổi, được mất khác nhau.
Sự mở mang khoa cử nước ta bắt đầu từ thời Lý với việc Lý Thánh Tông (1054 - 1072) sửa sang việc học; cho lập Văn Miếu, sai làm tượng Chu Công, Khổng Tử và thất thập nhị hiền để tỏ ý tôn trọng Nho học. Đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1075) cho mở khoa thi Minh kinh bác học và thi Nho học. Năm 1076 laị cho lập trường Quốc Tử Giám để làm nơi dạy dỗ con vua, quan, đào tạo nhân tài. Năm 1086 lại mở khoa thi chọn người vào Hàn lam viện. Niên hiệu Chính Long Báo Ứng (1163 - 1173), có thêm khoa thi Thái học sinh, qui chế thi cử đã khá đầy đủ.
Sang thời Trần việc giáo dục khoa cử đã được tổ chức chu đáo hơn, con đường khoa cử ngày càng rộng mở cho các sĩ tử. Đời Trần Thái Tông (1225-1231), việc phân chia tam giáp được định rõ để phân biệt cao thấp (việc phân chia này học theo phép thi của nhà Minh ở Trung Quốc). Đến khoa thi năm 1247 lại đặt ra Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) cũng được xác định. Đặc biệt, nhằm khuyến khích việc học hành ở những nơi xa kinh đô, nhà Trần chia khoa thi làm hai loại là Kinh và Trại, lấy hai Trạng nguyên, phân biệt Tam khôi, hoang giáp cũng có từ đây. Năm 1253, Quốc học viện được lập để giảng Tứ thư Ngũ kinh và lập Giảng võ đường để luyện tập võ nghệ. Điều này cho thấy việc giáo dục thời này đã khá phát triển, giáo dục không chỉ trọng trí dục mà cả thể dục cũng được quan tâm. Đến đời Long Khánh (Trần Duệ Tông, 1373-1377), danh hiệu Tiến sĩ cũng bắt đầu được sử dụng (năm 1374, Lê Quý Ly cải cách phép thi đổi Thái học sinh làm Tiến Sĩ, cho Tam khôi và Hoàng giáp là cập đệ xuất thân).
Năm 1427, sau khi Lê Thái Tổ đánh được quân Minh, khôi phục độc lập, việc học lại được đặt lại. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, năm Đại Bảo thứ ba (1442), chủ trương dựng bia đá để tôn vinh những người đỗ đạt được đề ra, đến năm Hồng Đức thứ 15 (1484) đời Lê Thánh Tông chủ trương đó được thực hiện trên thực tế. Triều Lê Thánh Tông được xem là triều đại đỉnh cao nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, cùng với sự phát triển của kinh tế chính trị, văn hoá xã hội, việc học hành thi cử cũng có nhiều tiến bộ. Lê Thánh Tông cho mở rộng lại nhà Thái học ở phía sau Văn Miếu, làm thêm phòng ốc cho sinh viên ở và học, xây kho bí thư để cất sách vở. Ông cũng cho định lại phép thi Hương, thi Hội, thi Đình và định lệ ba năm một khoa thi; lệ xướng danh và lệ vinh qui cũng có từ thời đấy. Triều Lê Thánh Tông cũng là lúc mà hiền tài đông đảo nhất, vua ở ngôi 20 năm mà mở tới 19 khoa thi.
Đến triều Nguyễn, vua Gia Long thống nhất đất nước cũng theo chế độ nhà Lê mà định phép thi và các dời sau có chỉnh sửa đôi chút. Việc học thời Nguyễn có thể xem như là phát triển nhất với số lượng 47 khoc thi từ năm1807 đến năm1919. Từ năm Minh Mệnh thứ 6, 1825 trở về sau, nghi lễ thi cử được tổ chức ngày càng long trọng, các sĩ tử trình báo theo phủ huyện, khảo hạch thật kĩ càng, có các chức quan lo thu quyển, rọc phách, chấm điểm phân định rõ rệt.
Sau khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, việc học tập giáo dục vẫn diễn ra song không còn được quan tâm đúng mức. Cho đến năm 1945 khi cách mạng tháng Tám do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo thành công thì hơn 90% dân số nước ta vẫn còn mù chữ. Trong tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm phát triển hệ thống giáo dục con người mới trên đất nước ta. Hệ thống giáo dục phong kiến không còn tồn tại, thay vào đó là một hệ thống giáo dục mới tiến bộ, phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, khẳng định vai trò và tinh thần của người Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó đến nay giáo dục đã thay đổi nhiều và đang ngày càng hướng tới đào tạo con người phát triển toàn diện cả về phẩm chất trình độ và thể chất. Giáo dục luôn là mặt trận được Đảng và Nhà nước quan tâm đàu tư đúng mức để hàng ngày, hàng giờ đào tạo ra những con người mới phục vụ cho việc đẩy nhanh quá trình đi tới chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy có thể thấy, giáo dục khoa cử có truyền thống lâu dài, xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, cho dù có nhiều biến đổi thăng trầm trong đời sống chính trị song giáo dục luôn được quan tâm và việc học tập kho cử đã trở thành một truyền thống rất đáng tự hào. Tuy nhiên đời nào cũng vậy, việc học tập khoa cử không tránh khỏi các mối tệ, gây cản trở cho sự phát triển của giáo dục, làm cho việc học đôi khi trở thành một tệ nạn cho nhiều người phê phán. Giáo dục hiện nay ở nước ta cũng đang đứng trước nhiều bất cập, nhiều kì họp gần đây của Chính Phủ, Quốc Hội tập trung vào vấn đề làm thế nào để tạo ra một hệ thống giáo dục phù hợp, toàn diện, tránh được tình trạng gian lận và các bất cập khác trong học tập, thi cử.
Đứng trước vấn đề đó của nước ta hiện nay, tôi đã chọn đề tài: “Từ thực trạng giáo dục khoa cử thời Lê Trung Hưng, góp thêm lời bàn về giáo dục khoa cử thời nay ở nước ta”, nhằm góp thêm tiếng nói nhỏ bé của mình vào vấn đề phức tạp trong giáo dục của cả nước. Nhân đây tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế và các bạn đã giúp tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này!
29 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2734 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Từ thực trạng giáo dục khoa cử thời Lê Trung Hưng, góp thêm lời bàn về giáo dục khoa cử thời nay ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn chương có quan hệ đến thế vận, việc thi cử cốt chọn lựa kẻ thực tài. Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Tổ tiên ta bắt đầu học chữ Hán ngay từ đầu thời Bắc thuộc, việc giáo dục bắt đầu có tổ chức từ thời Sĩ Nhiếp (Theo Đại Việt sử kí toàn thư, Sĩ Nhiếp được xem là Nam giao học tổ của người Việt). Song phải từ khi giành quyền tự chủ, việc học hành thi cử để đào tạo và tuyển chọn nhân tài mới thực sự chú trọng ở nước ta.
Các triều Ngô và triều Đinh, trị vì nước không lâu, lại thêm việc củng cố võ bị để bảo vệ độc lập đặt ra cấp thiết hơn nên việc giáo dục học tập bấy giờ chủ yếu diễn ra ở trong chùa chiền. Đến thời Lý việc đặt khoa cử diễn ra, rõ rệt ở thời Trần, Lê và sôi nổi nhất vào thời Nguyễn. Trong khoảng thời gian đó, việc học hành khoa cử có nhiều thay đổi, được mất khác nhau.
Sự mở mang khoa cử nước ta bắt đầu từ thời Lý với việc Lý Thánh Tông (1054 - 1072) sửa sang việc học; cho lập Văn Miếu, sai làm tượng Chu Công, Khổng Tử và thất thập nhị hiền để tỏ ý tôn trọng Nho học. Đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1075) cho mở khoa thi Minh kinh bác học và thi Nho học. Năm 1076 laị cho lập trường Quốc Tử Giám để làm nơi dạy dỗ con vua, quan, đào tạo nhân tài. Năm 1086 lại mở khoa thi chọn người vào Hàn lam viện. Niên hiệu Chính Long Báo Ứng (1163 - 1173), có thêm khoa thi Thái học sinh, qui chế thi cử đã khá đầy đủ.
Sang thời Trần việc giáo dục khoa cử đã được tổ chức chu đáo hơn, con đường khoa cử ngày càng rộng mở cho các sĩ tử. Đời Trần Thái Tông (1225-1231), việc phân chia tam giáp được định rõ để phân biệt cao thấp (việc phân chia này học theo phép thi của nhà Minh ở Trung Quốc). Đến khoa thi năm 1247 lại đặt ra Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) cũng được xác định. Đặc biệt, nhằm khuyến khích việc học hành ở những nơi xa kinh đô, nhà Trần chia khoa thi làm hai loại là Kinh và Trại, lấy hai Trạng nguyên, phân biệt Tam khôi, hoang giáp cũng có từ đây. Năm 1253, Quốc học viện được lập để giảng Tứ thư Ngũ kinh và lập Giảng võ đường để luyện tập võ nghệ. Điều này cho thấy việc giáo dục thời này đã khá phát triển, giáo dục không chỉ trọng trí dục mà cả thể dục cũng được quan tâm. Đến đời Long Khánh (Trần Duệ Tông, 1373-1377), danh hiệu Tiến sĩ cũng bắt đầu được sử dụng (năm 1374, Lê Quý Ly cải cách phép thi đổi Thái học sinh làm Tiến Sĩ, cho Tam khôi và Hoàng giáp là cập đệ xuất thân).
Năm 1427, sau khi Lê Thái Tổ đánh được quân Minh, khôi phục độc lập, việc học lại được đặt lại. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, năm Đại Bảo thứ ba (1442), chủ trương dựng bia đá để tôn vinh những người đỗ đạt được đề ra, đến năm Hồng Đức thứ 15 (1484) đời Lê Thánh Tông chủ trương đó được thực hiện trên thực tế. Triều Lê Thánh Tông được xem là triều đại đỉnh cao nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, cùng với sự phát triển của kinh tế chính trị, văn hoá xã hội, việc học hành thi cử cũng có nhiều tiến bộ. Lê Thánh Tông cho mở rộng lại nhà Thái học ở phía sau Văn Miếu, làm thêm phòng ốc cho sinh viên ở và học, xây kho bí thư để cất sách vở. Ông cũng cho định lại phép thi Hương, thi Hội, thi Đình và định lệ ba năm một khoa thi; lệ xướng danh và lệ vinh qui cũng có từ thời đấy. Triều Lê Thánh Tông cũng là lúc mà hiền tài đông đảo nhất, vua ở ngôi 20 năm mà mở tới 19 khoa thi.
Đến triều Nguyễn, vua Gia Long thống nhất đất nước cũng theo chế độ nhà Lê mà định phép thi và các dời sau có chỉnh sửa đôi chút. Việc học thời Nguyễn có thể xem như là phát triển nhất với số lượng 47 khoc thi từ năm1807 đến năm1919. Từ năm Minh Mệnh thứ 6, 1825 trở về sau, nghi lễ thi cử được tổ chức ngày càng long trọng, các sĩ tử trình báo theo phủ huyện, khảo hạch thật kĩ càng, có các chức quan lo thu quyển, rọc phách, chấm điểm phân định rõ rệt.
Sau khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, việc học tập giáo dục vẫn diễn ra song không còn được quan tâm đúng mức. Cho đến năm 1945 khi cách mạng tháng Tám do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo thành công thì hơn 90% dân số nước ta vẫn còn mù chữ. Trong tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm phát triển hệ thống giáo dục con người mới trên đất nước ta. Hệ thống giáo dục phong kiến không còn tồn tại, thay vào đó là một hệ thống giáo dục mới tiến bộ, phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, khẳng định vai trò và tinh thần của người Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó đến nay giáo dục đã thay đổi nhiều và đang ngày càng hướng tới đào tạo con người phát triển toàn diện cả về phẩm chất trình độ và thể chất. Giáo dục luôn là mặt trận được Đảng và Nhà nước quan tâm đàu tư đúng mức để hàng ngày, hàng giờ đào tạo ra những con người mới phục vụ cho việc đẩy nhanh quá trình đi tới chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy có thể thấy, giáo dục khoa cử có truyền thống lâu dài, xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, cho dù có nhiều biến đổi thăng trầm trong đời sống chính trị song giáo dục luôn được quan tâm và việc học tập kho cử đã trở thành một truyền thống rất đáng tự hào. Tuy nhiên đời nào cũng vậy, việc học tập khoa cử không tránh khỏi các mối tệ, gây cản trở cho sự phát triển của giáo dục, làm cho việc học đôi khi trở thành một tệ nạn cho nhiều người phê phán. Giáo dục hiện nay ở nước ta cũng đang đứng trước nhiều bất cập, nhiều kì họp gần đây của Chính Phủ, Quốc Hội tập trung vào vấn đề làm thế nào để tạo ra một hệ thống giáo dục phù hợp, toàn diện, tránh được tình trạng gian lận và các bất cập khác trong học tập, thi cử.
Đứng trước vấn đề đó của nước ta hiện nay, tôi đã chọn đề tài: “Từ thực trạng giáo dục khoa cử thời Lê Trung Hưng, góp thêm lời bàn về giáo dục khoa cử thời nay ở nước ta”, nhằm góp thêm tiếng nói nhỏ bé của mình vào vấn đề phức tạp trong giáo dục của cả nước. Nhân đây tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế và các bạn đã giúp tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này!
PHẦN I: GIÁO DỤC KHOA CỬ THỜI LÊ TRUNG HƯNG
1. Bối cảnh lịch sử văn hoá
Đầu thế kỉ XVI, chính quyền nhà Lê suy sụp. Nhân dân cực khổ nổi dậy nhiều nơi. Sự tranh chấp giữa các thế lực phong kiến đưa đất nước đến cảnh chiến tranh, chia cắt. Tình hình chính tri-quân sự, kinh tế-văn hoá diễn ra sôi động cùng với những biến chuyển sâu sắc.
Sau các triều vua cuối đời Lê sơ hủ bại ăn chơi sa đoạ (Lê Uy Mục.1505-1509, Lê Tương Dực(1509-1516), đất nước rơi vào cảnh rối ren loạn lạc, năm 1527, được một số quan lại và thần dân trong nước ủng hộ, Mạc Đăng Dung đã phế truất vua Lê lập ra triều nhà Mạc.
Từ khi nhà Mạc thay ngôi nhà Lê, một số quí tộc, cựu thần nhà Lê đã chuẩn bị nổi quân chống lại. Năm 1532 An thành hầu Nguyễn Kim đã dựa vào sự giúp đỡ của vua Ai Lao, đưa một người con của Lê Chiêu Tông lên làm vua và mộ quân chống lại nhà Mạc. Sau nhiều năm chiến tranh chia cắt liên miên, năm 1592 chính quyền nhà Lê mới được phục hồi trở lại trên đất Đại Viêt – còn gọi là triều Lê Trung Hưng.
Tuy được phục hồi nhưng chính quyền nhà Lê không còn uy thế như trước, các thế lực phong kiến Trịnh, Nguyễn nổi lên tranh giành quyền lực và phân chia địa vị thống trị. Đặc biệt khi nhà Trịnh lập ra phủ chúa thao túng tình hình chính trị thì nhà Lê chỉ còn tồn tại một cách yếu ớt cho đến những năm cuối thế kỉ XVIII.
Trong bối cảnh xã hội rối ren như vậy, văn hoá cũng nhiều suy đồi, ý thức hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng suy giảm. Về danh nghĩa, lúc này, đạo lý Khổng giáo luôn được coi là tư tưởng chính thống, nhà nước vẫn dựa vào các kinh sách Nho giáo để trị nước cũng như để tổ chức tuyển cử quan lại, nhưng trên thực tế nhiều giá trị đã thay đổi. Vua Lê chỉ tồn tại trên hư vị nên lòng trung quân cũng chỉ là lời nói suông… Các chuẩn mực giá trị bắt đầu bị chi phối bởi quan hệ hàng hoá, tiền tệ. Phật giáo và đạo giáo được phục hưng cùng với các tín ngưỡng dân gian cũng phát triển mạnh mẽ. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ dân gian đã phản ánh được một cách rõ nét và trung thực đời sống xã hội, các tệ nạn rối ren của thời đoạn này.
Thể chế nhà nước rệu rã, kỉ cương phép nước bịu buông lỏng, tư tưởng thực dụng len lỏi vào trong các quan hệ xã hội, việc học hành thi cử theo đó cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Nội dung thi cử khuôn sáo, hiện tượng gian lận, hối lộ trong thi cử tràn lan, đến nỗi “sinh đồ ba quan đầy cả thiên hạ”. Giáo dục khoa cử dưới sự chi phối của các quan hệ xã hội đã ngày càng biến đổi và bộc lộ nhiều hạn chế. Sĩ tử đỗ đạt không còn được người dân trọng vọng như xưa mà đôi khi còn trở thành đề tài châm biếm của nhiều người.
2. Chế độ giáo dục-khoa cử
Do bối cảnh chiến tranh loạn lạc, kể từ năm 1514 (triều Lê Tương Dực, thời Lê sơ) đến năm 1526 triều Lê Trung Hưng công việc học hành khoa cử bị đình trệ, trong khoảng thời gian đó chỉ diễn ra một kì thi Đình (1526) lấy đỗ Trạng nguyên. Đến năm 1554 tình hình chính trị tạm thời ổn định, nhà nước mới tổ chức một kì thi chế khoa tiến hành ở cung An Trường để chọn người tài giỏi.
Tuy nhiên do đất nước vẫn còn nhiều biến động nên phải đến năm Canh Thìn 1562 mới mở khoa thi Chế khoa lần thứ hai và mười mấy năm sau mới mở khoa thi lần thứ ba (Năm gia Thái thứ 5, 1577). Từ năm Canh Thìn (Quang Hưng 1580), việc thi cử mới được thực hiện tương đối đều khoảng ba năm một khoa (trừ năm 1586 không tổ chức được), các học vị theo như định lệ nhưng không có thi đình. Theo định lệ, khoa Đại Bảo thứ 3 (1442, triều Lê sơ), người thi đỗ được chia làm hai bảng. Chính bảng gồm ba vị Tam khôi và những người được lấy đỗ Tiến sĩ, những người cũng được lấy đỗ nhưng điểm thấp hơn so với Tiến sĩ thì được ghi tên ở phụ bảng. Nếu lấy đủ khung bậc và tiến hành thi Đình thì sau khi thi Đình sẽ có người được danh học vị Trạng nguyên, (tuy vậy Vua có quyền không ban đủ các học vị qui định như chỉ lấy Bảng nhãn mà không lấy Trạng nguyên, thế nên đời Lê Trung Hưng nhiều khoa thi không lấy đỗ Trạng nguyên).
Ất Mùi năm 1595 (Quang Hưng thứ 18), các khoa thi Hội của Lê Trung Hưng được tổ chức tiếp ở kinh đô Thăng Long và lại thi Đình như thường lệ. Cũng từ đây trở đi các qui chế khảo hạch sĩ tử, thi Hương, thi Hội được thường xuyên bổ sung điều chỉnh. Các vua Lê chúa Trịnh tuy tài đức khác nhau, việc giáo dục khoa cử cũng đậm nhạt qua các đời song vẫn phải nêu lên mục đích đào tạo “vì nước, vì dân” (điều này được ghi ở hầu hết qua lời văn trên các bia Tiến sĩ đặt ở Quốc Tử Giám).
Các sĩ tử đỗ đạt thời này được đãi ngộ khá trọng hậu, theo các qui định từ thời Lê Thái Tông (), đến thời Nguyễn vẫn còn được duy trì, thì các vị tân khoa đều được ban áo mũ Tiến sĩ, được ban yến ở vườn Quỳnh Lâm và được cấp ngựa tốt, có lính hầu rước về quê vinh qui bái tổ. Đó là những ân điển cực kì long trọng giành cho những người thi đỗ đại khoa. Lê Quí Đôn từng điểm lại việc này và nhận xét: “Bản triều từ lúc Trung Hưng đến nay, đối với người đỗ khoa Tiến sĩ đãi ngộ rất hậu, bổ dụng rất cao:
Ban cho mũ áo. cân đai triều phục, cho vinh qui về quê hương, có đủ các hạng cờ quạt, nghi trượng, phường trống và phường nhạc đón rước.
Viên quan có trách nhiệm bắt dân làng trước hết dựng phủ đệ cho Tiễn sĩ
Không những người đỗ Tam khôi hoặc ứng thi Chế khoa trúng cách được bổ và viện Hàn lâm, mà cả người đỗ Đồng Tiến sĩ cũng được bổ chức khoa đạo, không phải bổ làm quan ở phủ , huyện.
Trong mỗi khoa một người đỗ trẻ tuổi nhất được bổ chức Hiệu thảo.
Người nào bổ quan ở ngoài các trấn thì bổ vào hai ty Thừa chính hoặc Hiến sát, đều trao chưởng ấn chính thức, không phải giữ chức Tá nhị.
Năm ân điển này so với việc đặt khoa mục ở Trung Quốc từ xưa đến nay chưa từng có” (
).
Triều Lê Trung Hưng cũng là triều đầu tiên phong quan chức ngay cho người đỗ đạt. Có thể tham khảo ân điển với người trúng thí theo bảng sau:
Khoa giáp
Học vị
Tiêu chuẩn hưởng thụ
Bổ dụng
Đệ nhất giáp
Đệ nhất danh
Đệ nhị danh
Đệ tam danh
Đệ nhị giáp
Đệ nhất danh
Đệ nhị danh trở xuống
Đệ tam giáp
Giáp bảng
Tiến sĩ cập đệ
Trạng nguyên
Bảng nhãn
Thám hoa
Tam khôi
Tiến sĩ xuất thân
Hoàng giáp
Đồng Tiến sĩ xuất thân
Gọi chung Tiến sĩ hoặc Giáp tiến sĩ
- Được mũ áo phẩm phục
- Ăn yến
- Xem hoa
- Chơi kinh đô
- Cưỡi ngựa vinh qui
- Được hàng tổng làm biếu một ngôi nhà gọi là “nhà đại khoa”
- Được hưởng ruộng biếu
. Trạng nguyên:Thị giảng
. Bảng nhãn: Thị thư
. Thám hoa: Thị chế
. Hoàng giáp:hiệu lý
. Đồng tiến sĩ: Giám sát ngự sử hàng đạo
Bên cạnh việc hậu đãi những người đỗ đạt, triều Lê Trung Hưng còn quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục. Như ngày mồng bảy tháng tám năm Vĩnh Thịnh 1720, Chúa Trịnh hạ lệnh cho “Mỗi phủ đều lập trường học, cho phép quan liêu được cư trú ngay ở trường học để làm việc giáo huấn” (
).
Trường Quốc Tử Giám bấy giờ được xem làm trung tâm điểm để truyền bá giáo dục, đào tạo Nho sĩ và chấn hưng văn phong, nhưng chỉ nghiêng về văn chương cử nghiệp. Nhà Giám bấy giờ ngoài việc giảng Kinh truyện và Bắc sử thì hấu hết là giành thời gian cho việc bình văn, ngâm thơ, phú, giải kinh nghĩa. Thí dụ năm 1728, tham tụng Nguyễn Hãng đem các văn quan vào Quốc Tử Giám giảng văn bát cổ chế nghệ để hướng dẫn, cổ vũ học trò.Theo Phạm Đình Hổ, thì vào thời Cảnh Hưng (1740-1786) “cứ mỗi tháng vào trước hôm soc vọng một ngày thì nhà Giám lại mở cuộc bình văn” (
). Trong “Lời dẫn” về cuốn “Lê triều giám tập phú văn”, Minh đô sử cũng cho biết: “Về việc văn chương, triều Lê coi là một điển chương trọng đại. Những ngày bình văn ở Quốc Tử Giám, các quan Tham tụng, Bồi tụng đều dự, sĩ tử như mây họp lại, nhà Giám cơ hồ không chứa đủ người” (
) .Như vậy cũng đủ thấy việc văn chương lúc này cũng khá chú trọng.
Nói thêm về Quốc Tử Giám thì có thể thấy, đây được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, là nơi đào tạo và cung cấp nhiều nhân tài cho đất nước. Các qui định về học quan và giám sinh nơi đây cũng theo những thể chế nhất định. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết sơ lược về hai chức quan đứng đầu nhà Giám như sau: “Các viên Trì giám tư Tế tửu, tư nghiệp phụng mệnh coi nhà Văn Miếu, rèn tập sĩ tử, phải theo chiếu chỉ truyền năm trước, hàng tháng cho tập làm văn để gây dựng nhân tài giúp việc thực dụng cho nước” (
). Các bậc thầy ở trường Giám tuyệt đại là các vị đại khoa nổi tiếng, nhiều khi là các vị quan to tại triều kiêm nhiệm như Lê Quí Đôn, Bùi Huy Bích…
Các học quan nhà Giám đến thời Lê Trung Hưng về cơ bản giống triều Lê sơ, chỉ bãi bỏ chức Ngũ kinh bác sĩ (quan đi sâu về từng kinh riêng), phẩm trật của các quan nhà Giám qui định theo thời Hồng Đức: Tế tửu tòng tứ phẩm; Tư nghiệp tòng ngũ phẩm; Giáo thụ chánh bát phẩm; Huấn đạo chánh cửu phẩm; thấp hơn là chức học lục chuyên lo về giáo vụ: thi cử, quản lí giám sinh…
Giám sinh nhà Giám được phân loại như sau:
Ân giám
Ấm giám
Cử giám
Giám sinh do Quốc Tử Giám tuyển chọn
Cống sinh
Quan sinh
Công sinh
Tuế Ưu Ân Bạt Phó
Cống cống cống cống cống
Giám sinh do nhà vua ban ân cho vào học
Giám sinh là con em quan chức
Giám sinh được cử sau khi đã qua thi hương
Học sinh qui dịnh cho mỗi địa phươ theo số dân
Nho sinh ưu tú từ các xứ được chọn ba năm một lần
Do khánh điển hàng năm của Hoàng tộc
Do quan Học chính các xứ khảo thi đưa lên
Đỗ phó bảng của kì thi hương
Con quan chức ở kinh đô (có quyể thi riêng)
Giám sinh có quân công từ nhị đẳng trở lên
Ngoài các khoa thi Tiến sĩ, triều Lê Trung Hưng còn đặt một số khoa thi là những khoa thi không nhất định trên cấp thi Hương như khoa: Hoành từ, Sĩ vọng, Đông các, Tuyển cử. Những Hương cống thi đỗ koa đó được châm trước bổ dụng vào các chức vụ phụ tá tại kinh cũng như ở ngoài. Những người này sau vẫn có quyền thi Hội và được ghi là “có đỗ khoa Sĩ vọng”.
Phép thi thời Lê Trung Hưng, theo Kiến Văn tiểu lục của Lê Quí Đôn thì “kì đầu thi năm bài kinh nghĩa sĩ tử đều chuyên trị một kinh, có thính thực, có kết thúc, có bình luận, có trong kinh. Các bậc tiền bối soạn sẵn từng bài, lời lẽ rắn rỏi, trang nhã, bọn hậu sinh cùng nhau rập theo bản cũ, quan trường chỉ chấm thải bỏ bài thối nát mà thôi” (
).
Việc thi cử về trí lực thì như vây, còn bên cạnh các khoa thi ấy còn có các khoa thi về thể lực - thi võ. Hàng năm, việc giảng tập và khảo duyệt thi võ đều được thực hiện. Niên hiệu Bảo Thái (1720-1729), Trịnh Cương phỏng theo phép nhà Đường, nhà Tống để thu dụng nhân tài, hạ lệnh đặt ba năm một khoa, các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu thi sở cử (thi ở địa phương); các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi bác cử (thi ở kinh đô). Thời này, để phát triển giáo dục thể chất, nhà Vũ cũng học được lập ra, có quan viên chỉ báo học trò, vũ sinh được dự thi ở sở Vũ học gồm cả binh lính trong ngạch và ngoại binh. Cuộc thi được tổ chức do một viên quan võ làm đề điệu, giám thí và giám khảo đều cử hai phúc khảo và đồng khảo bốn người (dùng cả quan văn, quan võ). Phép thi thường gồm hai kì, kì đệ nhất hỏi sơ qua về một số câu trong sách Tôn Tử, Binh Thư (
)….Kì đệ nhị thi thể chất, đấu các môn như vầt, cưỡi ngựa, bắn cung, mém lao, múa đao, lăn khiên…, tuỳ theo thể chất của mỗi người mà dự thi môn thi đấu các hạng khác nhau.Năm Bảo Thái thứ 5 (1724) có thêm kì đệ tam thi bài văn sách hỏi về phương lược thao luyện, đánh, giữ và trận pháp.
Các võ sinh sau khi trúng thí đều được ân điển trọng hậu, theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quí Đôn thì ân điển được ban gồm: “áo sắc xanh; đai dệt tơ dát sừng trâu; nón sơn đỏ; thưởng 10 lạng bạc; được dự yến ở bộ Lễ; được vinh qui về làng; cho bái yết nhà Võ học, nghi lễ long trọng” (
).
Như vậy, theo thống kê trong Các nhà khoa bảng Việt Nam(
), thì chỉ riêng các khoa thi Tiến sĩ chính thức từ năm 1554 đến năm 1787 đã mở 73 khoa thi, lấy đỗ 772 Tiến sĩ. Bên cạnh giáo dục trí dục, như trên đã đề cập, triều Lê Trung Hưng còn quan tâm đến cả giáo dục thể chất. Những sự quan tâm đó đã làm cho nền giáo dục được duy trì và có nhiều thay đổi, cải cách cho phù hợp với mỗi thời. Mục tiêu giáo dục vì nước, vì dân vẫn được các vua chúa thời Lê Trung Hưng coi trọng hàng đầu trong duy trì, tổ chức nền giáo dục đất nước.
PHẦN II: CÁC MỐI TỆ TRONG THI CỬ VÀ CÁC ĐỀ XUẤT CỦA QUẦN THẦN THỜI LÊ TRUNG HƯNG
1. Các mối tệ trong thi cử
Qua tình hình giáo dục nêu trên, có thể thấy triều Lê Trung Hưng đã rất quan tâm đến việc giáo dục đào tạo nhân tài cho đất nước. Việc giáo dục không chỉ bao gồm giáo dục trí dục mà còn cả giáo dục thể dục, các chương trình học tập, rèn luyện không ngoài mục đích kén chọn nhân tài thực học. Tuy nhiên, đời nào cũng vậy, con đường khoa cử không thể tránh được các mối tệ nảy sinh; thời Lê Trung Hưng, tình hình chính trị xã hội không mấy ổn định, văn hoá giáo dục ngày càng sa sút, việc khoa cử lại càng nhiều rối ren hơn.
Các mối tệ trong thi cử thời Lê Trung Hưng được nhiều tác gia trong các tác phẩm sử học cũ đề cập (cả trong chính sử cũng như trong dân gian). Có rất nhiều hình thức tương tự so với gian lận trong thi cử ngày nay mà có thể gọi “tên” được như:
Đi thi hộ: Năm 1648, Sĩ Dương đội tên đi thi đỡ (
).
Quay cóp: Năm 1664, Ngô Sách Dụ coi việc trường thi ngầm đem sách và văn cũ vào trường, riêng cho người nhà viết thay quyển thi, trà trộn đưa vào chấm lấy đỗ để chiếu theo giá đã định, khoét lấy tiền của người ta (
).
“Đánh dấu” trước để nâng điểm: Năm1696, Ngô Sách Tuân đưa riêng quyển thi của con Lê Hy (không trúng cách) được đóng giấy Thanh Hoa cho quan phúc khảo phê lại, lấy trúng cách (
).
Chậm thông báo điểm để chạy chọt: Năm 1705, do rối loạn thi cử, nhà nước ra lệnh răn dạy các quan ở trường học các châu, huyện, kinh, trấn phải yết bảng tên người đỗ ngay sau khi có điểm để tránh tình trạng mơ hồ, chạy vạy (
).
Nhờ người gà bài: Năm 1726, phần nhiều Hương cống nhờ người gà văn cho được đỗ một cách quá lạm, con nhà quyền thế phần nhiều không có thực học, vì thế phải tổ chức thi lại cống sĩ (
).
Niên hiệu Quang Hưng (Lê Thế Tông 1578-1599), năm 1592 hai cha con Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hoà đi thi đọc bài cho nhau chép để lấy đỗ (
).
Biết trước đề thi: Theo Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ nhiều thí sinh đã bằng cách này hay cách khác mà biết trước được đề thi như trường hợp của Nguyễn Hoãn hay Nguyễn Quốc Ngạn…(
).
Ra đề đánh đố thí sinh: Trường hợp Hoàng giáp Nguyễn Lại (1581-1661, Hoằng Lộc- Hoằng Hoá- Thanh Hoá) là một ví dụ. Do tính tình lập dị, khi được cử làm chủ khảo khoa thi hương ở trấn Sơn Nam, ông đã chủ ý ra đề thi lắt léo, đánh