1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của các dân tộc thường có những vĩ nhân mà cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và hành động gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử đầy sôi động đầy biến cố của dân tộc và thời đại mình: phản ánh ý chí, nguyện vọng của các dân tộc bằng hoạt động của mình đã góp phần vào sự phát triển của thời đại. Mác, Ănghen, V.I.Lênin . và đăc biệt là Hồ CHí Minh là những con người tiêu biểu như vậy.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn nửa thế kỷ. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh trí tuệ của dân tộc và thời đại, là sự vận dụng sáng tạo và bước phát triển của chủ nghĩa Mác- Lênin vao điều kiện thực tiền của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới như hiện nay, tư tưởng Hồ CHí Minh là tư tưởng xuyên suốt và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Mục đích chọn đề tài
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền nói riêng đã có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng nhà nước thật sự dân chủ, một nhà nước thật sự của dân vì quyền và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để có thể nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết hơn về tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
3.Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp luận là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và có hiệu quả. Kết hợi với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, và phương pháp liên ngành là ba phương pháp nghiên cứu chính và cụ thể mà tôi có thể sử dụng khi nghiên cứu đề tài này.
4. Đóng góp của đề tài
Với những gì mà tôi cảm nhận và tìm hiểu khi nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, soi vào thực tế ở Việt Nam hiện nay, tôi hi vọng rằng vấn đề nghiên cứu này có tính khả thi cao và giúp cho bộ máy nhà nước ta ngày càng hoàn thiện trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân ở Việt Nam.
5.Cơ cấu của niên luận
Lời mở đầu
Chương 1: Khái quát về lịch sử tư tưởng học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ lịch sử
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân
Chương 3: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời đại mới
Kết luận
31 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 15434 | Lượt tải: 12
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời đại mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1: Khái quát tư tưởng học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ lịch sử
1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cổ đại
1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ tư sản
1.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong thời ký chủ nghĩa xã hội
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân
2.1. Nhà nước của dân do giai cấp nhân dân lãnh đạo
2.1.1. Nhà nước của dân
2.1.2. Nhà nước do dân
2.1.3. Nhà nước vì dân
2.1.4. Bản nhất nhà nước của dân do dân vì dân
2.2. Tư tưởng về pháp quyền và nhà nước pháp quyền
2.2.1. Vai trò của pháp quyền trong nhà nước
2.2.2. Nhà nước VN dân chủ cộng hoà là một nhà nước hợp pháp hợp hiến
2.2.3. Nhà nươc điều hành xã hội bằng pháp luật
Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền trong sạch vững mạnh hoạt động có hiệu qủa
3.1. Đề phòng khắc phục những tiêu cực trong hoạt động nhà nước
3.1.1. Đặc quyền đặc lợi
3.1.2. Tham ô lãng phí quan liêu
3.1.3. Tư túng chia rẽ kiêu ngạo
3.2. Tăng cường pháp luật đi đôi với việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
3.3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức đủ tài
3.3.1. Tuyệt đối trung thành với cách mạng
3.3.2. Hăng hái thành thạo trong công việc giỏi chuyên môn
3.3.3. Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân
3.3.4. Là đày tớ của công dân
Kết luận
Tài liệu tham khảo
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của các dân tộc thường có những vĩ nhân mà cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và hành động gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử đầy sôi động đầy biến cố của dân tộc và thời đại mình: phản ánh ý chí, nguyện vọng của các dân tộc bằng hoạt động của mình đã góp phần vào sự phát triển của thời đại. Mác, Ănghen, V.I.Lênin…. và đăc biệt là Hồ CHí Minh là những con người tiêu biểu như vậy.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn nửa thế kỷ. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh trí tuệ của dân tộc và thời đại, là sự vận dụng sáng tạo và bước phát triển của chủ nghĩa Mác- Lênin vao điều kiện thực tiền của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới như hiện nay, tư tưởng Hồ CHí Minh là tư tưởng xuyên suốt và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Mục đích chọn đề tài
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền nói riêng đã có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng nhà nước thật sự dân chủ, một nhà nước thật sự của dân vì quyền và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để có thể nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết hơn về tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
3.Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp luận là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và có hiệu quả. Kết hợi với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, và phương pháp liên ngành là ba phương pháp nghiên cứu chính và cụ thể mà tôi có thể sử dụng khi nghiên cứu đề tài này.
4. Đóng góp của đề tài
Với những gì mà tôi cảm nhận và tìm hiểu khi nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, soi vào thực tế ở Việt Nam hiện nay, tôi hi vọng rằng vấn đề nghiên cứu này có tính khả thi cao và giúp cho bộ máy nhà nước ta ngày càng hoàn thiện trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân ở Việt Nam.
5.Cơ cấu của niên luận
Lời mở đầu
Chương 1: Khái quát về lịch sử tư tưởng học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ lịch sử
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân
Chương 3: tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời đại mới
Kết luận
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG HỌC THUYẾT VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích luỹ và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã có từ rất sớm, trong tư tưởng chính trị pháp lý thời cổ đại đã chứa đựng nhiều nhân tố của nhà nước pháp quyền. Dến thời kỳ sau cách mạng dân chủ tư sản, những tư tưởng quý báu đó đã được kế thừa, phát triển và trở thành học thuyết về nhà nước pháp quyền. Các học thuyết đó đã được áp dụng ở các mức độ, phạm vi khác nhau ở nhiều nước tư sản. Ngày nay học thuyết đó đến lượt mình lại tiếp tục được bổ sung, phát triển cho phù hợp với những thay đổi sâu sắc của xã hội hiện đại, đặc biệt nó trở thành nền tảng để phát triển thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền.
1.1 Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cổ đại
Có thể nói rằng, mặc dù với cách thức và thể hiện khác nhau nhưng trong tư tưởng chính trị và pháp lý của nhà nước phương Đông và nhà nước phương Tây đà chứa đựng những nhân tố mang đặc điểm đầu tiên của nhà nước pháp quyền.
Trong những học thuyết của nhà nước phương đông thời cổ đại mà tiêu biểu là học thuyết chính trị pháp lý của nhà nước Trung Hoa thời cổ, trung cổ như đức trị và pháp trị tuy còn có rất nhiều điểm hạn chế, song cũng chứa đựng những nhân tố về nhà nước pháp quyền được thể hiện trong các nhà tư tưởng vĩ đại như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử… Đặc biệt những quan điểm của Khổng Tử về pháp luật rất đặc sắc bởi chúng liên quan đến nhiều phương diện của pháp luật: lập
pháp, tư pháp, tài chính, tố tụng….Tư tương pháp luật của ông là tư tưởng pháp luật nhân học, là tư tưởng pháp luật luân lý. Tư tưởng quản lý xã hội bằng đạo đức của Khổng Tử tuy còn có những mặt hạn chế song cũng có nhiều mặt tích cựcbởi pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật được xây dựng, áp dụng và đánh giá trên cơ sở đạo đức xã hội, pháp luật phải phù hợp với đạo đức và thiếu đạo đức thì không có được một xã hội bền vững. Bên cạnh tư tưởng của Khổng Tử, tư tưởng chính trị của trường phái Pháp gia mà đại điện là Hàn Phi Tử đã coi pháp luật là cơ sở duy nhất đẻ quản lý xã hội. Ông đã khẳng định: “ Không có pháp luật luôn luôn đúng”. Theo ông pháp luật phải được viết thành văn và công bố rộng rãi cho mọi người. Pháp luật phải nghiêm minh và có chế độ thưởng phạt đúng đắn.
Bên cạnh tư tưởng về nhà nước pháp quyền của các học gia phương Đông, tư tưởng pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền với sự pháp triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, nhưng có phần sâu sắc hơn vì được dựa trên cơ sở tư duy triết học, thể hiện sự tìm kiếm khách quan.
Nội dung chính trị pháp lý ở phương Tây cổ đại đã đề cập đến vai trò thống trị của pháp luật trong xã hội, đến tính tối cao, tính hợp lý của đạo luật. Tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ của mỗi cá nhân kể cả nhà nước. Pháp luật phải phù hợp với pháp luật tự nhiên. Bên cạnh đó tư tưởng của các học gia phương Tây còn đề cập đến sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước để tránh sự lạm quyền .
Tiêu biểu cho tư tưởng chính trị pháp lý phương tây thời báy giờ là các nhà tư tưởng lỗi lạc ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như: XôLông_ nhà tu tưởng Hy Lạp ở thế kỷ VI trước Công Nguyên, Hêraclit ở những năm 520-460 trước CN, Xôcrat năm 469 – 399 trước CN, Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Platôn năm 427 -374 trước CN. Và người được Các Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại : Arixtot năm 384 -322 trươc CN đã khảng định vị trí tối thượng của pháp luật và đề ccạp đến sự tổ chức hợp lý của quyền lực nhà nước theo đó nhà nước nào cũng phải có ba bộ phận: cơ quan làm luật ( lập pháp), cơ quan thực hành pháp luật ( hành pháp), cơ quan xét xử ( tư pháp)
Tư tưởng về hà nước pháp quyền trong thời kỳ cổ đại tuy mới là những học thuyết ban đầu, sơ khai nhưng nó lại mang những giá trị lịch sử rất to lớn đối với tư tưởng của các nhà triết học trong các thời kỳ sau này.
1.2.Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong thời kỳ tư sản chủ nghĩa
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền cổ đại đã được các nhà tư tưởng tư sản tiếp thu và pháp triển trong những điều kiện mới, thể hiện thể giới quan pháp lý mới. Nội dung chủ yếu trong học thuyết tư sản về nhà nước pháp quyền là chống chế độ chuyên quyền phong kiến, tình trạng vô pháp luật, pháp luật dã man, đấu tranh vì một chế độ nhà nước hoạt động trên cơ sở và phục tùng pháp luật, một nền pháp luật đảm bảo tự do bình đẳng và nhân đạo. Các nhà tư tưởng tư sản đã đề xướng cho các quan điểm pháp quyền như: pháp luật giữ vai trò thống trị trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền con người: sự bình đẳng trong quan hệ nhà nước và các nhân, chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân chia quyền lực….
Một số nhà tư tưởng tiến bộ thời kỳ này như: Jôccơ ( 1632-1704)_ nhà tư tưởng người Anh dẫ nêu ra nguyên tắc làm những gì mà pháp luật cho phép chỉ áp dụng đối với những người cầm quyền, còn đối với công dân: làm những gì mà pháp luật không cấm. Hay theo như nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp SácLơ Lui Môngteskiơ (1698-1755) thì mỗi nàh nước đều có ba loại quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự phân chia và kìm chế, đối trọng lẫn nhau giữa ba quyền là điều kiện chủ yếu để đảm bảo tự do chính trị trong nhà nước và xã hội. Ngoài ra còn có nhữngnhà tư tưởng khác như: J.Rutxô- nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp,nhà triết học người Đức I.Kantơ (1724-1804), Hêghen nhà triết học người Đức đã có những đóng góp to lớn trong trong học thuyết vè nhà nước thời kỳ này.
1.3 Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội
Những nhân tố nhà nước pháp quyền đã được thể hiện trong học thuyết Mác Lênin về nhà nước và pháp luật như lý luận về phpá chế, về dân chủ, về tự do và công bằng mà pháp luật là đại lượng là công cụ ghi nhận và đảm bảo.
Bên cạnh học thuyết của Mac Lênin , trong tư tưởng Cách mạng vĩ đại của Hồ Chủ Tịch có một bộ phận cấu thành cơ bản đó là tư tưởng về nhà nước pháp quyền.Tu tưởng của Người đã chứa đụng nhiều nhân tố về nhà nước pháp quyền dặc biệt là tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức: tư do, dân chủ, quyền con người…Tư tưởng của người đã được hiện thực hoá trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 và trong suốt quá trình xây dựng và phát triển nhà nước Việt Nam
Các học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các tời kỳ nói trên và đặc biệt trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa là một di sản vô cùng quý giá cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân như hiện nay.
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN DO DÂN VÌ DÂN
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc thực hiện và phát huy dân chủ vì “ dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” Người đã chỉ rõ “ Nước ta là nước dân chủ, chế độ ta là chế độ dân chủ.Trong một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ, người dân được đặt ở vị trí cao nhất, dân là chủ”
Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra con người vĩ đại, đã kế thừa và phát huy những tư tưởng của các bậc tiền bối như “ Nước lấy dân làm gốc” hay “Người đẩy thuyền cũng là dân, người lật thuyền cũng là dân” trong truyền thống dân tộc; đã xuất pháp từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về nhà nước pháp quyền của nhiều quốc gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và lý luận đó vào viẹc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam.
Suốt 24 năm đứng đầu nhà nước, Người đã trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp xây dựn và bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân dầu tiên ở Đông Nam Á. Trên cơ sở thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo chính quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước đã được bổ sung, phát triển và là một bộ phận quan trọng của hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, đã được sự chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và hoạt động của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoàvà nhà nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
2.1. Nhà nước của dân do dân vì dân do giai cấp công nhân lãnh đạo
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính quyền Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân do dân và vì dân, là cơ sở xã hội của nhà nước là toàn dân tộc, nền tảng là liên minh công nông, lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước , Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cácn mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải ddawtj quyền lợi cho số đông người và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một nhà nước công nông binh thể hiện trong “chánh cương vắn tắt” (3/2/1930).Chánh cương đã xác định nhiệm vụ chính trị của Cách mạng Việt Nam là: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông.
Trải qua thực tế cao trào cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ trươmg xây dựng ở Việt Nam một nhà nước dân chủ cộng hoà , một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân và vì dân. Trong bài báo Dân vận( năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định “ Nước ta là nước dân chủ. Boa nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc đều là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến trung ương đều do dân bầu ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên” . Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Về thể chế của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, hiến pháp 1946 đã ghi rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền hành trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”và “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”
Sự khác biệt giữa nhà nước dân chủ kiểu cũ và nàh nước dân chủ kiểu mới là ở điểm cơ bản: Nhà nước dân chủ kiểu cũ là dân chủ tư sản, mang bản chất của giai cấp tư sản.Còn nhà nước dân chủ kiểu mới là dân chủ của nhân dân, mang bản chất của giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Đó là một nhà nước của dân, do dân, vì dân, dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân.
Quan điểm về nhà nước pháp quyền, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
2.1.1 Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong tay nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của của Người được thể hiện rõ nét trong các bản Hiến Pháp đó. Như trong bản Hiến Pháp năm 1946 Người nêu rõ: “Tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con người con rồng cháu tiên, bất kỳ già trẻ gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh vác một phần”. Và ngay bản thân Người cũng đã hoạt động không mệt mỏi nhằm thức tỉnh toàn dân tộc phát huy cao nhất sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền và sự thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “ Càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh: “ Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự lựa chọn những người có đức có tài để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì có quyền đi bầu cử.”. Lần đầu tiên công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử. Đây là điều hết sức mới mẻ đối với tầng lớp lao động Việt Nam. Mặt khác những người ở trong bộ máy nàh nước, bộ máy quyền lực dù ở cấp nào cũng đều là “đầy tớ của dân”. Dân có quyền bầu cử thì cũng có quyền giám sát, bãi miễn những người trong bộ máy nhà nước do mình bầu rầm không làm tròn trách nhiệm đại biểu quyền lực cho dân.
Đối với Hồ Chí Minh, xây dụng một nhà nước của dân không chỉ trong ý tưởng, thiết kế mà phải bằng hành động thực tiễn và điều quan trọng nhất là mọi việc từ nhỏ đến lớn, Người đều tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của nhân dân còn dân làm chủ nghĩa là xác địn quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nàh nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của dân đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2/9/1945 chính là nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hành nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì nhà nước đó là nhà nước của nhân dân.
2.1.2 Nhà nước do dân
Nhận thức rõ vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước do dân. Điêu đó có nghĩa là nhân dân không chỉ là người lập ra nhà nước mà phải tham gia vào những công việc quản lý nhà nước. Người đã từng nói: “ Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân làm chủ…”,và “ Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân tổ chức. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều là ở nơi dân”.
Nhà nước do dân tức là nhân dân phải tham gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội ta tuy có vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung mọi quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia thì sẽ đước đưa ra cho nhân dân giải quyết nếu ba phần tư tổng số đại biểu của quốc hội đồng ý (Điều 22 Hiến pháp năm 1946)
Nhà nước do dân cũng có nghĩa là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm cảu quần chúng nhân dân. Do đó phải phát huy vai trò của các mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý nhà nước và xã hội. Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết những công việc của đất nước. Người nói “ Dân như nước, mình như cá” . “ Lực lượng nhiều là ở dân hết” “ Công việc đổi mới xây dựng đất nước lởctách nhiệm của dân”. Do đó, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, nhất định phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân của dân làm lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”.
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là do dân tự làm, tự lo việc thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các Đoàn thể chứ không phải nhà nước bao cấp lo thay dân làm cho dân thụ động ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng “ Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt…
Khó mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
Chính vì vậy,Nhà nước xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nhà nước tin dân. Dân tin ở lãnh đạo thì việc gì cũng có thể làm được.
2.1.3 Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Mọi đường lối, chính sách chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân, dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước”. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm : “ Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành”.Hồ Chí Minh viết