Đề tài Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh - Sự vận dụng, phát triển của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay

Đại đoàn kết dân tộc là một trong những bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một tư tưởng lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được các Đại hội của đảng ta liên tiếp khẳng định và nêu cao. Sự nghiệp đổi mới ngày càng phát triển quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế thế giới ngày càng đẩy mạnh thì ý nghĩa của bài học nói trên càng có tính thời sự sâu sắc.Vì vậy, yêu cầu thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một điều kiện không thể thiếu để giúp chúng ta tìm ra những đối sách phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới. Tuy nhiên, thực tế một lần nữa chứng minh rằng, vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải đựơc xem xét và giải quyết tận gốc rễ trên quan điểm thực sự khoa học và cách mạng. Đòi hỏi phải xuất phát từ sự nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để nắm vững lý luận về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, từ đó chúng ta mới có thể nắm được thực chất của chủ trương thực hiện vấn đề đại đoàn kết dân tộc, chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ những vấn đề đó, đề tài đi sâu nghiên cứu và làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, từ đó khẳng định tính đúng đắn của chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. 2.Mục đích nghiên cứu Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Ngiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc- Vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay(Từ 1986 đến nay) 4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê. 5. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở bài và kết luận niên luận gồm 2 chương: Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Lý do chọn đề tài:

doc33 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 31498 | Lượt tải: 10download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh - Sự vận dụng, phát triển của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC CỦA HỒ CHÍ MINH – SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. MỞ BÀI Lý do chọn đề tài: Đại đoàn kết dân tộc là một trong những bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một tư tưởng lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được các Đại hội của đảng ta liên tiếp khẳng định và nêu cao. Sự nghiệp đổi mới ngày càng phát triển quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế thế giới ngày càng đẩy mạnh thì ý nghĩa của bài học nói trên càng có tính thời sự sâu sắc.Vì vậy, yêu cầu thấm nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một điều kiện không thể thiếu để giúp chúng ta tìm ra những đối sách phù hợp, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới. Tuy nhiên, thực tế một lần nữa chứng minh rằng, vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải đựơc xem xét và giải quyết tận gốc rễ trên quan điểm thực sự khoa học và cách mạng. Đòi hỏi phải xuất phát từ sự nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để nắm vững lý luận về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, từ đó chúng ta mới có thể nắm được thực chất của chủ trương thực hiện vấn đề đại đoàn kết dân tộc, chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ những vấn đề đó, đề tài đi sâu nghiên cứu và làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, từ đó khẳng định tính đúng đắn của chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. 2.Mục đích nghiên cứu Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Ngiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc- Vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay(Từ 1986 đến nay) 4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê. 5. Kết cấu của đề tài. Ngoài phần mở bài và kết luận niên luận gồm 2 chương: Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. B. Nội dung Chương 1:Tư tưởng Hồ Chi Minh về đại đoàn kết dân tộc. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam , từ cáchmạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người”.[2.19] Tư Tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm về giải phóng dân tộc,giải phóng giai cấp, giải phóng con người... Trong những tư tưởng đó chúng ta không thể không nhắc đến tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc của Người. Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng rộng rãi và bền vững. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hoá nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. 1.1.1 Chủ nghĩa yêu nước. Tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, tạo thành truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt nam. Tinh thần, ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn bản sắc dân tộc được giữ vững. Đối với mỗi người Việt Nam yêu nước – nhân nghĩa - đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên: “ Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng” Và hơn thế nữa, nó đã trở thành một triết lý nhân sinh: “ Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Và thành phép ứng xử, tư duy chính trị: “Tình làng, nghĩa nước. Nước mất thì nhà tan. Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” [2.178] Tất cả đã ghi đận dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt chẽ: Gia đình – làng xã - quốc gia vã cũng trở thành sợi dây liên kết các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, mà còn được rất nhiều anh hùng dân tộc ở các thờikỳ lịch sử khác nhau như: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung ... đúc kết nâng lên thành phép đánh giặc, giữ nước, “Tập hợp bốn phương manh lệ”, “ Trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, “Tướng sĩ một lòng phụ tử”, “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” ... Truyền thống ấy đã được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lưc lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc dấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh ở nửa đầu thế kỷ XX. Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ truyền thống yêu nước – nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Người đã khẳng định “ từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần yêu nước lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hơn nữa còn phải phát huy truyền thống đó trong giai đoạn cách mạng mới của dân tộc ta “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.[5.172] 1.1.2 Chủ nghĩa Mác- Lênin về đại đoàn kết dân tộc. Cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là những quan niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác- Lênin về đại đoàn kết dân tộc cho rằng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”... Chỉ bằng những luận điểm ngắn nhưng rất cơ bản trên của các nhà kinh điển Macxít, Hồ Chí Minh đã phát triển vận dụng trong điều kiện mới rất sáng tạo và phù hợp. Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là vì chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tập hợp, đoàn kết các lưc lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và mở rộng hơn nữa là trên toàn thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin không phải bằng một cách thụ động, không chỉ qua báo chí sách vở mà chủ yếu là ở chỗ vừa hoạt động cách mạng lại vừa nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa tìm hiểu về cách mạng Tháng Mười Nga. Người đã kết hợp cả lý thuyết với thực tiễn một cách sáng tạo và phù hợp nhất. Vì vây, Người đã sớm nắm được linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lênin, những vấn đề cốt lõi nhất của học thuyết cách mạng và khoa học của các nhà kinh điển. Nhờ đó Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác yếu tố tích cực cung như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc cách mạng của các nước, từ đó hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc. 1.1.3 Thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của cácphong trào ấy đều được Người nghiên cứu để rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Phong trào yêu nướcViệt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX. Các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã nối tiếp nhau vùng dậy chống ngoại xâm nhưng đều thất bại. Thực tiễn hào hùng bi tráng của dân tộc đã chứng tỏ rằng, bước vào thời đại mới, chỉ có tinh thần yêu nước thì không thể đánh bại được các thế lực Đế quốc xâm lược. Vận mệnh của dất nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được một đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ được cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành được thắng lợi. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã thấy được những hạn chế trong việc tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối, những yêu cầu khách quan mới của lịch sử dân tộc. Đây chính là điểm xuất phát để Hồ Chí Minh xác định: Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành khảo sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa ở hầu khắp các châu lục. Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt la cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của giai cấpa tư sản cũng như tại sao những cuộc cách mạng tư sản vẫn chỉ là cách mạng “không đến nơi”. Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh to lớn tiềm ẩn của họ, và cũng thấy rõ những hạn chế: Các dân tộc thuộc địa chưa có được sự lãnh đạo đúng đắn chưa biết đoàn kết lại, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức. Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với Lênin, Người lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng đó đã đưa Hồ Chí Minh đén bước ngoặt quyết định trong việc tìm đường cứu nước. Từ chỗ chỉ biết đến cách mạng Tháng Mười một cách cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường cách mạng Thang Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là bài học huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng, để đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc nuốn bóp chết nhà nước Xô Viết non trẻ, để xây dựng chế độ xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh nghiên cứu cách mạng Tháng Mười Nga không phải chỉ qua báo chí sách vở, mà còn ở ngay chính trên quê hương – trên mảnh đất đã diễn ra cuộc cách mạng ấy. Chính điều này đã giúp Người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc “Cách mạng đến nơi” để chuẩn bị cho cuộc lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi vào con đường cách mạng mới những năm sau này. Đối với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến Trung Quốc và ấn Độ. Đây là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước tiến bộ đã tiến hành cách mạng (Đoàn kết các dân tộc, các giai tầng, các đảng phái và tôn giáo... nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, như chủ trương “Liên Nga, thân Cộng, ủng hộ công nông”, “Hợp tác Quốc – Cộng” của Tôn Trung Sơn). 1.2. Nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Với cương vị lãnh đạo tối cao của Đảng cộng sản và của dân tộc, đứng đầu nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hơn hai mươi năm liền, Người đã tập hợp, quy tụ được các dân tộc, các giai cấp, tầng lớp, đảng phái,tôn giáo, nhân sĩ trí thức yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nướcngoài xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam,từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN. Để làm được điều đó Người phải có những quan điểm đúng đắn, những hành động cụ thể phù hợp trong từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong các quan điểm của Người về đại đoàn kết dân tộc: 1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó là một tư tưởng cơ bản nhất quán và xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc,giai cấp. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý! Đoàn kết làm ra sức mạnh “ Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”[6.392] “ Đoàn kết là sức mạnh , đoàn kết là thắng lợi” [10.22] “ Đoàn kết là sức mạnh là then chốt của mọi thành công” [10.154] “Đoàn kết là điểm mẹ: “ Đoàn kết này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt...” [7.392] Và đặc biệt người đã nhấn mạnh: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công đại thành công” [9.607] 1.2.2. Đoàn kết dân tộc là một mục tiêu , một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Tư tưởng đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất cuả cách mạng Việt Nam. Trong “ Lời kết thúc buổi ra mắt của đảng lao động Việt Nam” ngày 3/3/1951 Hồ Chí Minh đã thay mặt đảng tuyên bố toàn thể dân tộc: “ Mục đích của đảng lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. [5.183] Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa Người chỉ rõ: “ Trước cách mạng tháng tám và trong kháng chiến thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hai là làm kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: “ Một là đoàn kết. Hai là xây dựng CNXH. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.[10.130] Ta nhận thấy rằng dù trong bất kỳ điều kiện lịch sử nào thì vấn đề đoàn kết vẫn được đặt lên hàng đầu trong vấn đề dân tộc nói chung. Đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc. Như vậy đại đoàn kết dân tộc đòi hỏi sự khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. 1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm dân, nhân dân có nội hàm rất rộng người dùng các khái niệm này để chỉ “ Mọi con dân nước Việt” , “ Mỗi một người con rồng cháu tiên” không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt “ Già , trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiên”. Như vậy dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “ Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta cần phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. [6.438] Hồ Chí Minh đã sử dụng từ “ta” ở đây theo nghĩa rất rộng. Ta ở đây vừa là đảng vừa là mọi người dân của tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm “ Đại đoàn kết dân tộc” để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Muốn thực hiện được việc đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc phải có tấm lòng khoan dung độ lượng với con người. Hồ Chí Minh cho rằng ngay với người lâm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ mà hoàn toàn không định kiến, khoét sâu cách biệt. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, nhưng cả năm ngón đều thuộc về cùng một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết rộng rãi. Thậm chí đối với những người trước đây đã chống chúng ta, nhưng nay không chống nữa, khối đại đoàn kết vẫn mở rộng cửa đón tiếp họ. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “ Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. [6.438] Với tấm lòng độ lượng bao dung Người tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nao, chính kiến nào, và trước đây đứng về phe nào, chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Để thực hiện đựơc đoàn kết Người căn dặn: Cần xoá bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân. Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng đinh quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi như trên là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng mỗi người, “ Ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước lại bộ lộ. Vì vậy mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho đến mãi mãi mai sau. Dân tộc, toàn dân là khối rất đông bao gồm nhiều chục triệu con người. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Về điều này, người đã chỉ rõ: “ Đại đoàn kết trước hết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững , gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. [6.438] Người còn phân tích sâu hơn đâu là những lực lượng nòng cốt tạo nên cái nền tảng ấy, hay cũng có thể nói đâu là nền tảng của cái nền tảng ấy: “ Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất. Về sau người nêu thêm:Lấy liên minh công-nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng không e ngai bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đaị đoàn kết dân tộc”. [9.18] 1.2.4. Mặt trận dân tộc thống nhất là biểu hiện cụ thể nhất của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi mà trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn đảng, toàn dân ta. Nó phổ biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc chính là mặt trận thống nhất.