Đề tài Tư tưởng phân chia quyền lực, và sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản

Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại thì các tư tưởng về nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng đặc biệt là những tư tưởng về quyền lực nhà nước và việc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Đó được coi là những tư tưởng giữ vị trí cơ bản, trọng yếu, chúng bao giờ cũng để lại dấu ấn của mình trong các thể chế chính trị nhất định. Tư tưởng phân quyền đã được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII-XVIII mà điển hình là John Locke, Montesquieu, Rouseau kế thừa, phát triển và hoàn thiện, coi đó là cơ sở để đảm bảo tự do của nhân dân và chống chế độ độc tài chuyên chế. Vì thế nó tiếp tục được nghiên cứu, thể hiện và áp dụng trong việc tổ chức bộ máy nhà nước của nhiều nước trên thế giới ở các mức độ khác nhau và được coi là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy nhà nước tư sản. Việc nghiên cứu tư tưởng phân chia quyền lực, và sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản sẽ tạo tiền cho việc nghiên cứu nền chính trị và các thể chế chính trị của các nước tư sản đương đại.

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2654 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tư tưởng phân chia quyền lực, và sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại thì các tư tưởng về nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng đặc biệt là những tư tưởng về quyền lực nhà nước và việc tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Đó được coi là những tư tưởng giữ vị trí cơ bản, trọng yếu, chúng bao giờ cũng để lại dấu ấn của mình trong các thể chế chính trị nhất định. Tư tưởng phân quyền đã được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII-XVIII mà điển hình là John Locke, Montesquieu, Rouseau kế thừa, phát triển và hoàn thiện, coi đó là cơ sở để đảm bảo tự do của nhân dân và chống chế độ độc tài chuyên chế. Vì thế nó tiếp tục được nghiên cứu, thể hiện và áp dụng trong việc tổ chức bộ máy nhà nước của nhiều nước trên thế giới ở các mức độ khác nhau và được coi là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy nhà nước tư sản. Việc nghiên cứu tư tưởng phân chia quyền lực, và sự vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản sẽ tạo tiền cho việc nghiên cứu nền chính trị và các thể chế chính trị của các nước tư sản đương đại. NỘI DUNG I-Khái quát chung. Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước, còn gọi là tư tưởng phân quyền là tổng thể các quan điểm về việc chia tách quyền lực nhà nước thành các loại quyền lực khác nhau, về cơ chế vận hành của từng loại quyền lực và mối quan hệ theo hướng ngăn cản, kiềm chế, kiểm soát hoặc đối trọng với nhau giữa các loại quyền lực ấy trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Nói một cách cụ thể hơn thì đó là tổng thể các quan điểm đề cập đến việc phân tách quyền lực nhà nước thành nhiều loại quyền lực có tên gọi, nội dung và vị trí khác nhau, được trao cho các chủ thể khác nhau thực hiện. Trong quá trình hoạt động các chủ thể ấy có thể kiềm chế, ngăn cản, kiểm soát lẫn nhau hoặc đối trọng với nhau song lại phối hợp với nhau vừa để bảo đảm sự kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm ngăn chặn sự độc tài, chuyên chế, bảo vệ tự do của công dân vừa bảo đảm sự thống nhất quyền lực nhà nước. Tư tưởng phân chia quyền lực được các nhà hiền triết đề xướng từ thời La Mã cổ đại với đại diện tiêu biểu là Aristot. Tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ XVII-XVIII, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là J.Locke và C.L.Montesquieu, đặc biệt là Montesquieu với tác phẩm nổi tiếng “Tinh thần pháp luật”-1748. Tiếp theo Montesquieu, J.J.Rouseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. II-Vận dụng tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản. Trong thực tiễn tổ chưc bộ máy nhà nước của một số nước tư sản, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước được thể hiện: - Quyền lực nhà nước được phân tách thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện. Các cơ quan ấy có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau và có sự chuyên môn hóa trong hoạt động. Mỗi cơ quan sẽ chuyên chú vào việc thực hiện chức năng, thẩm quyền riêng của mình. Cả ba loại cơ quan ấy đều hoạt động trên cơ sở luật pháp. Sự phân bố quyền lực giữa các cơ quan đó sao cho không 1 cơ quan nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước, không một cơ quan nào có thể tách khỏi chức năng của mình và cũng không một cơ quan nào được sai khiến hoặc chen lấn chức năng của cơ quan khác. - Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không chỉ độc lập vơi nhau khi thực hiện chức năng, thẩm quyền của mình mà còn có thể kiềm chế, ngăn cản hoặc đối trọng với nhau trong hoạt động, không có cơ quan nào nằm ngoài sự giám sát, kiểm tra từ phía cơ quan khác. Điều đó sẽ giúp mỗi cơ quan có thể ngăn cản được sự lấn quyền, vượt quyền của cơ quan khác, đồng thời có thể tránh được sự chuyên quyền, độc đoán, lạm quyền trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Song mỗi cơ quan còn có thể tác động ở một mức độ nhất định tới tổ chức và hoạt động của cơ quan khác để đồng thời vừa kiểm soát nhau lại vừa phối hợp với nhau tạo nên sự thống nhất trong quyền lực nhà nước. Do vậy phân quyền là một kỹ thuật tất yếu của việc tổ chức một nhà nước dân chủ tư sản. Nguyên tắc phân quyền đã được thừa nhận và long trọng tuyên bố trong các văn kiện quan trọng của nhiều nước: Điều 16 “Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân” năm 1789 của Pháp viết “Một xã hội trong đó không bảo đảm việc sử dụng các quyền và không thực hiện sự phân quyền thì không thể có Hiến pháp”; nước Mỹ cũng đã khẳng định nguyên tắc phân quyền trong Hiến pháp Liên bang và Hiến pháp của các Tiểu bang; Hiến pháp Liberia chỉ rõ cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Liberia là nguyên tắc phân quyền và hệ thống “kiềm chế đối trọng”; Điều 34 Hiến pháp Ruanđa ghi nhận “sự phân chia và hợp tác giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thiêng liêng và được điều chỉnh trong Hiến pháp”; những nước khác mặc dù không tuyên bố nguyên tắc phân quyền trong Hiến pháp song nội dung của Hiến pháp lại thể hiện sự phân quyền. Tuy nhiên sự thể hiện và áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước tư sản khá đa dạng, phong phú tùy theo hoàn cảnh của mỗi nước. Cụ thể có ba mức độ áp dụng chính là cứng rắn, mềm dẻo và trung gian giữa hai mức độ ấy. 1.Sự phân quyền mềm dẻo ở những nước có chính thể đại nghị. Những nước có chính thể đại nghị (kể cả quân chủ và cộng hòa) là nơi mà tư tưởng phân quyền được thể hiện và áp dụng ở mức độ mềm dẻo, thể hiện ở chỗ: Hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối quan hệ mật thiết, thường xuyên với lập pháp do sự chịu trách nhiệm trước lập pháp và sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này. Nguyên thủ quốc gia chỉ là hành pháp tượng trưng vì bộ máy hành pháp trực thuộc Thủ tướng và Thủ tướng mới phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động song không hoàn toàn độc lập trong tổ chức, hoạt động với lập pháp. a/Phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước Anh. Anh là một trong những nước đầu tiên của thế kỷ XVII thể hiện tư tưởng phân quyền trong tổ chức bộ máy và Montesquieu sau khi nghiên cứu kỹ cách thức tổ chức nhà nước Anh đã xây dựng nên thuyết phân quyền nổi tiếng. Sự phân chia quyền lực nhà nước bắt đầu thể hiện trong tổ chức nhà nước Anh vào khoảng thế kỷ XVII và đặc biệt rõ nét từ sau cách mạng 1688-khi Quốc hội giành được quyền lập pháp. Kể từ đó quyền lực nhà nước đã có sự phân định thành lập pháp, hành pháp, tư pháp trong đó quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, hành pháp thuộc về vua và chính phủ còn tư pháp chủ yếu thuộc tòa án và một phần thuộc nghị viện. Trong ba quyền này thì tư pháp và hành pháp tương đối độc lập với nhau còn lập pháp và hành pháp thì không hoàn toàn độc lập mà có sự cộng tác, đan xen, hòa nhập và chịu trách nhiệm trước nhau. Lập pháp có thể lật đổ hành pháp và ngược lại hành pháp có thể giải tán lập pháp trước thời hạn, giữa hai cơ quan này có sự chung nhân viên với nhau. Song sự phân chia quyền lực, phạm vi quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan trên không cố định mà có sự thay đổi theo xu hướng chuyển dần quyền lực của cơ quan này cho cơ quan kia và ngược lại làm cho nước Anh chuyển dần từ quân chủ chuyên chế sang quân chủ nhị hợp rồi quân chủ đại nghị như ngày nay. -Quyền lập pháp: Quốc hội là trung tâm của hệ thống chính trị Anh, cũng là định chế lập pháp tối cao. Quốc hội theo chế độ lưỡng viện gồm có Viện thứ dân (Hạ viện) và Viện quý tộc (Thượng viện). Lúc khởi thủy, Nghị viện có rất ít quyền hành, toàn bộ quyền lực đều tập trung trong tay nhà vua. Đến thế kỷ XVII khi xuất hiện quy chế luật phải được sự nhất trí, tán thành của ba cơ quan: Thượng viện, Hạ viện và nhà vua thì vua buộc phải cai trị theo sự phê chuẩn của Nghị viện, vua không thể ban hành luật nếu không có sự nhất trí của Quốc hội, vua phải tôn trọng pháp luật và luật chỉ có thể được sửa đổi bởi Nghị viện. Đặc biệt từ sau 1688 Nghị viện “có thể thông qua bất cứ một đạo luật nào để điểu chỉnh bất cứ một quan hệ xã hội nào nếu Nghị viện cho rằng việc điều chỉnh quan hệ xã hội đó bằng luật là cần thiết”. -Quyền hành pháp: thuộc về vua và chính phủ. Trong hành pháp quyền lực của vua cũng bị giảm dần. Nếu như trong chế độ quân chủ nhị hợp, quyền hạn của vua được mở rộng đến mức tối đa trong lĩnh vực hành pháp, vua vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu chính phủ thì hiện tại ngôi vua chỉ còn mang tính hình thức, là biểu tượng của quốc gia. Chức năng hành pháp được giao cho chính phủ. Nhà vua bổ nhiệm thủ tướng theo quy định rất chặt chẽ, theo đó thủ tướng phải là thành viên của Viện thứ dân, vì như thế mới dành được ủng hộ của Viện cho việc thành lập chính phủ. Sau đó thủ tướng lựa chọn các bộ trưởng tham gia vào Nội các. Chính phủ phải chịu trách nhiệm với Quốc hội-một nghị quyết bất tín nhiệm được thông qua bởi Quốc hội sẽ có thể buộc chính phủ hoặc phải từ chức hoặc phải giải tán quốc hội và tổ chức tổng tuyển cử. Hiện nay ở Anh quyền lập pháp và hành pháp đều tập trung trong tay một đảng mà thực tế là trong tay thủ tướng. Với nguyên tắc nghị sĩ của đảng nào chỉ được bỏ phiếu cho ý chí của đảng đó, cộng với quyền trình dự án luật trước Quốc hội nên gần như có một nguyên tắc là mọi dự luật đều xuất phát từ chính phủ. Mọi hoạt động của Quốc hội và chính phủ đều do đảng cầm quyền quyết định. Có thể nói phân quyền không phải là nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức bộ máy nhà nước Anh song sự phân chia chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan cấp cao của nhà nước không thể không tồn tại. -Quyền tư pháp: quyền này thuộc hệ thống tòa án và chỉ làm công tác xét xử, chức năng công tố và thi hành án thuộc về chính phủ. Hiện tại ở Anh Tòa án trung ương là tòa án tối cao và các thẩm phán của nó đều do nhà vua bổ nhiệm theo đề nghị của thủ tướng hoặc chủ tịch Thượng viện. Theo thông lệ về hình thức thì Thượng viện là tòa án cao nhất và chỉ xét xử các vụ việc bị kháng án của tất cả các tòa án. Ở Anh không thành lập Bộ tư pháp, hệ thống tòa án được đặt dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Thượng viện. Hệ thống luật sư ở Anh rất phát triển đặt dưới sự lãnh đạo của Tổng chưởng lý bởi không có hệ thống cơ quan công tố. Hệ thống tòa án Anh có tính độc lập tương đối cao trong hoạt động song để tránh sự độc đoán của tòa án thì vua và Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm thẩm phán theo đề nghị của chính phủ còn Thượng viện cơ quan tối cao phán quyết, xét xử các vụ việc bị kháng án của tất cả các tòa án, là tòa án đưa ra quyết định cuối cùng và không bị kháng án. Tóm lại từ thế kỷ XVII trở lại trong tổ chức bộ máy nhà nước Anh sự phân chia quyền lực giữa lập pháp và hành pháp càng mờ nhạt dần theo thời gian, chỉ có sự phân chia quyền lực giữa lập pháp với tư pháp và giữa hành pháp với tư pháp là tương đối rõ. Tuy vậy sự ngăn cản, hạn chế, kiểm soát lẫn nhau trong hoạt động giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp vẫn tồn tại và thể hiện dưới nhiều hình thức. b/ Phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước Đức. Nước Đức tư bản hình thành muộn so với một số nước tư bản khác ở châu Âu. Theo hiến pháp 1949, Đức là nước có chính thể cộng hòa đại nghị với sự phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp và giữa liên bang với bang. Hiến pháp còn trù liệu cơ chế kiềm chế, kiểm soát cũng như hợp tác giữa các ngành trên. -Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện liên bang và nghị viện các bang trong đó thẩm quyền của mỗi bên được hiến pháp xác định rõ. Nghị viện liên bang bao gồm hai viện: Thượng viện còn gọi là Hội đồng liên bang và Hạ viện. Nghị viện liên bang có độc quyền lập pháp trong một số lĩnh vực như ngoại giao, tài chính, thuế quan…các bang chỉ có quyền tham gia lập pháp khi và trong giới hạn một luật liên bang ủy quyền rõ ràng. Ở Nghị viện quyền lập pháp cũng được chia đều cho hai viện song phần chủ yếu thuộc Hạ viện. Chức năng chính của Hạ viện là lập pháp, giám sát chính phủ và bầu cử thủ tướng liên bang. Cơ chế kiềm chế, kiểm soát lẫn nhau giữa hai viện thể hiện rõ trong quá trình xây dựng luật từ khi nêu sáng kiến lập pháp, trình dự án luật, chuyển giao các đạo luật qua hai viện đến việc phủ quyết và bác bỏ của mỗi viện. Ngoài lập pháp, Nghị viện còn có quyền giám sát hoạt động của chính phủ đó là hình thức kiềm chế của lập pháp với hành pháp. -Quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và chính phủ mà người đứng đầu là thủ tướng. Chức năng tổng thống liên bang đơn thuần là đại diện chính thức cho nhà nước nên chủ yếu mang tính lễ nghi, hình thức, ít có ảnh hưởng tới chính phủ và thủ tướng. Cũng giống như ở Anh, sự phân quyền giữa lập pháp và hành pháp ở Đức không dứt khoát vì có sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này. Chính phủ có thể tham gia vào quá trình lập pháp từ khâu nêu sáng kiến đến khâu thảo luận và thông qua luật. Các Thượng nghị sĩ đảm nhiệm cả chức vụ lập pháp lẫn hành pháp. Cơ chế kiềm chế giữa lập pháp với hành pháp thể hiện rõ qua việc bổ nhiệm thủ tướng và thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Ngược lại hành pháp cũng có thể kiềm chế lập pháp thông qua quyền nêu sáng kiến lập pháp đặc biệt trong trường hợp Nghị viện không thể quyết định nếu không có đề nghị của chính phủ. Sự phân quyền dọc giữa trung ương và địa phương, giữa liên bang và bang thể hiện rất rõ trong lĩnh vực hành pháp. Hiến pháp quy định rằng: chính quyền các bang thi hành các đạo luật liên bang trừ trường hợp luật quy định các điều trái ngược. Do vậy sự thi hành các đạo luật phần lớn do bộ máy hành chính các bang đảm nhiệm. -Quyền tư pháp thuộc về hệ thống tòa án bao gồm Tòa án Hiến pháp liên bang, các tòa án liên bang và các tòa án bang. Tòa án Hiến pháp liên bang có thể kiềm chế lập pháp qua việc giải quyết kháng nghị chống lại quyết định của Hạ viện. Ngược lại lập pháp cũng kiềm chế tư pháp thể hiện ở chỗ khi xét xử thẩm phán độc lập nhưng phải tuân theo các đạo luật của nhà nước liên bang, không được vi phạm Hiến pháp. Với hành pháp, tư pháp kiềm chế hành pháp thông qua việc tuyên bố tước cương vị tổng thống và phán xét các công chức về trách nhiệm của họ. Vai trò kiềm chế của hành pháp với tư pháp thể hiện qua hoạt động: một mặt tòa án độc lập với chính phủ trong hoạt động thì mặt khác phải chịu sự ảnh hưởng của chính phủ trong tổ chức, trong việc bổ nhiệm thẩm phán. Ở Đức không có cơ quan công tố, công tố viên Đức cũng được gọi là thẩm phán. Tóm lại tư tưởng phân quyền được áp dụng một cách mềm dẻo trong tổ chức bộ mày nhà nước Đức. Chính phủ là cơ quan quyết định toàn diện về chính sách đối nội, đối ngoại của liên bang. Nó không đơn thuần là đại diện cho đa số trong Nghị viện mà là một quyền lực chính trị độc lập, có khả năng quyết định và có quyền hạn cần thiết để bảo đảm thực hiện chức năng của mình. Sự áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực một cách mềm dẻo ở chính thể đại nghị có ưu điểm là dễ tạo sự bình ổn trong đời sống chính trị đất nước vì giữa lập pháp và hành pháp có mối liên hệ thường xuyên, mật thiết với nhau và có chung nhân viên. Tuy nhiên lại có những hạn chế đó là không đảm bảo được sự độc lập, cạnh tranh giữa lập pháp và hành pháp làm cho sự phân quyền nghiêng nhiều về hình thức hơn là thực chất. Thêm vào đó nguyên thủ quốc gia không có thực quyền nên trong những trường hợp khẩn cấp hoặc cần thiết không đưa ra được những quyết định kịp thời. Mô hình tổ chức nhà nước này tỏ ra ít thống nhất với lý thuyết phân quyền làm biến dạng lý thuyết này đến mức biến Quốc hội và chính phủ từ chỗ là hai cơ quan thể hiện sự phân chia quyền lực nhà nước thành hai cơ quan thực hiện chính sách của đảng cầm quyền. 2.Phân quyền cứng rắn trong những nước cộng hòa tổng thống. Cộng hòa Tổng thống là hình thức tổ chức bộ máy nhà nước thể hiện sự áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách cứng rắn. Ở những nhà nước này các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong hoạt động nhờ không có sự chung nhân viên giữa chúng đồng thời có thể kiềm chế, đối trọng lẫn nhau theo nguyên tắc “quyền lực ngăn cản quyền lực”. Trong đó quyền lập pháp thuộc về nghị viện, quyền hành pháp thuộc về tổng thống và quyền tư pháp thuộc về hệ thống tòa án. Hoa Kỳ là nước tiêu biểu cho nguyên tắc phân quyền cứng rắn trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính quyền liên bang có ba nhánh là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi nhánh có thẩm quyền để hành xử các sự vụ trong lĩnh vực riêng, với một số thẩm quyền ảnh hưởng trên hai nhánh còn lại, và ngược lại có một số quyền bị ảnh hưởng bởi một hoặc cả hai nhánh kia. -Quyền lập pháp: Hiến pháp Hoa kỳ quy định tất cả các quyền lập pháp đều thuộc về Quốc hội bao gồm hai viện: Viện Dân biểu (Hạ viện) và Thượng viện. Việc thiết lập hai viện với cơ chế kiềm chế nhau giữa chúng sẽ giảm bớt ưu thế của cơ quan lập pháp để nó cân bằng với bộ máy hành pháp. Từ 1913, hai viện đều được cử tri bầu ra, thẩm quyền lập pháp của hai viện gần như ngang nhau, Thượng viện có nhiệm vụ cố vấn và phê chuẩn các bổ nhiệm của Tổng thống trong khi Hạ viện có trách nhiệm đệ trình những dự luật nâng cao thu nhập quốc gia, một dự luật chỉ có thể được thông qua nếu có đủ số phiếu thuận của cả hai viện. Quốc hội có trách nhiệm giám sát và tác động đến các mặt điều hành của nhánh hành pháp. Quốc hội có quyền làm luật để hạn chế quyền hành pháp của tổng thống, tổng thống có thể bị luận tội bởi đa số dân biểu ở Hạ viện và bị dời bỏ khỏi chức vụ bởi đa số 2/3 tại Thượng viện. Tóm lại Quốc hội Mỹ được quy định theo hướng bảo đảm cho nó vừa độc lập vừa có toàn quyền khi thực hiện chức năng của mình vừa đủ khả năng kiềm chế đối trọng với Tổng thống. - Quyền hành pháp trong chính quyền liên bang được ủy nhiệm cho Tổng thống. Tổng thống vừa đứng đầu nhà nước vừa đứng đầu bộ máy hành pháp, vừa thực hiện chức năng của nguyên thủ quốc gia, vừa thực hiện chức năng thủ tướng chính phủ lại gần như độc lập với quốc hội nên có quyền hành rất lớn và là trung tâm quyền lực của bộ máy nhà nước. Các bộ trưởng chỉ là người giúp việc cho tổng thống, thực hiện các chính sách của tổng thống. Tổng thống còn có quyền lực đáng kể trong các lĩnh vực lập pháp và tư pháp: tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật đã được Quốc hội thông qua, tổng thống không thể giải tán quốc hội hoặc tổ chức các cuộc bầu cử đặc biệt nhưng có quyền ân xá những người bị buộc tội theo luật liên bang, ban hành sắc lệnh hành pháp và bổ nhiệm (với sự phê chuẩn của Thượng viện) thẩm phán tối cao Pháp viện và thẩm phán liên bang. -Quyền tư pháp: Chủ thể của quyền tư pháp là tòa án tối cao và các tòa án cấp dưới mà đứng đầu là Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Tòa tối cao xét xử các vụ án liên quan đến chính quyền liên bang và những vụ tranh tụng giữa các tiểu bang. Tách khỏi nhưng không hoàn toàn độc lập với hệ thống tòa án liên bang là các hệ thống tòa án riêng lẻ thuộc tiểu bang, có thẩm quyền xét xử các vụ án theo luật tiểu bang với trình tự của riêng mình. Hệ thống tòa án Mỹ được pháp luật trao cho những quyền lực hoàn toàn độc lập với hành pháp và lập pháp, hơn thế còn độc lập với cả dân chúng vì nó không được nhân dân bầu ra và không phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Thẩm phán được hình thành bằng con đường bổ nhiệm và sau khi được bổ nhiệm thẩm phán sẽ giữ chức vụ suốt đời nếu vẫn giữ được đức hạnh xứng đáng. Ở Mỹ còn thể hiện sự phân quyền theo chiều dọc giữa liên bang với tiểu bang, giữa trung ương với địa phương trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mặc dù có sự độc lập với nhau trong hoạt động nhưng giữa ba cơ quan trên không hoàn toàn tách biệt với nhau mà vẫn có sự hợp tác, gắn bó mật thiết với nhau đảm bảo sự thống nhất quyền lực nhà nước. Chính sự hợp tác liên tục tổng thống với quốc hội đã làm giảm bớt sự cứng rắn trong nguyên tắc phân quyền, tạo sự nhịp nhàng cho bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó giữa quốc hội và Tối cao pháp viện cũng có quan hệ khá chặt chẽ với nhau trong lịch sử ban hành pháp luật. Sự phân quyền cứng rắn ở chính thể cộng hòa tổng thống là mô hình áp dụng giống với lý thuyết phân quyền của Montesquieu nhất. Nó có ưu điểm là mang lại sự quyết đoán, sự tập trung quyền lực và sự độc lập cao cho nguyên thủ quốc gia và bộ máy hành pháp. Cả lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có thể chuyên chú, thu hẹp hoạt động của mình vào việc thực hiện chức năng ri