Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác(1720-1791) là một nhân cách sáng chói trong lịch sử tư tưởng và y học Việt Nam. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng nhưng ông không chọn cho mình con đường công danh khoa cử mà lại đi theo con đường y thuật chữa bệnh cứu người. Hơn 30 năm làm nghề thuốc, ông đã đúc kết kinh nghiệm, khảo cứu sách vở viết ra bộ" Y tông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển để lại cho đời sau.
"Hải Thượng Y tông tâm lĩnh" là một tác phẩm y học đồ sộ. Tác phẩm còn chứa đựng một hệ thống những tư tưởng triết học hết sức sâu sắc. Do những tư tưởng triết học trong bộ sách này là rất rộng và rất sâu nên trong bài viết này người viết chỉ tập trung làm rõ những tư tưởng triết học trong" Phụ đạo xán nhiên"- một tập trong"Hải Thượng Y tông tâm lĩnh". "Phụ đạo xán nhiên" gồm 2 quyển nhỏ bàn về cách chữa các chứng bệnh của phụ nữ.
Trong thời đại ngày nay, khi những vấn đề về bình đẳng giới và sức khoẻ của người phụ nữ vẫn đang nhận được sự quan tâm của xã hội, việc tìm hiểu những tư tưởng trong"Phụ đạo xán nhiên"- tác phẩm đầu tiên trong lịch sử Việt Nam lấy đối tượng trung tâm là người phụ nữ sẽ cung cấp cho chúng ta những bài học để giải quyết những vấn đề của ngày hôm nay.
2. Tình hình nghiên cứu
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2505 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học trong các tác phẩm của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác(1720-1791) là một nhân cách sáng chói trong lịch sử tư tưởng và y học Việt Nam. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng nhưng ông không chọn cho mình con đường công danh khoa cử mà lại đi theo con đường y thuật chữa bệnh cứu người. Hơn 30 năm làm nghề thuốc, ông đã đúc kết kinh nghiệm, khảo cứu sách vở viết ra bộ" Y tông tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển để lại cho đời sau.
"Hải Thượng Y tông tâm lĩnh" là một tác phẩm y học đồ sộ. Tác phẩm còn chứa đựng một hệ thống những tư tưởng triết học hết sức sâu sắc. Do những tư tưởng triết học trong bộ sách này là rất rộng và rất sâu nên trong bài viết này người viết chỉ tập trung làm rõ những tư tưởng triết học trong" Phụ đạo xán nhiên"- một tập trong"Hải Thượng Y tông tâm lĩnh". "Phụ đạo xán nhiên" gồm 2 quyển nhỏ bàn về cách chữa các chứng bệnh của phụ nữ.
Trong thời đại ngày nay, khi những vấn đề về bình đẳng giới và sức khoẻ của người phụ nữ vẫn đang nhận được sự quan tâm của xã hội, việc tìm hiểu những tư tưởng trong"Phụ đạo xán nhiên"- tác phẩm đầu tiên trong lịch sử Việt Nam lấy đối tượng trung tâm là người phụ nữ sẽ cung cấp cho chúng ta những bài học để giải quyết những vấn đề của ngày hôm nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Hơn hai thế kỉ nay người ta không ngớt lưu truyền tên tuổi của Lê Hữu Trác. Nhiều thế kỉ nay chúng ta đã không ngừng khám phá tư tưởng triết học và đạo đức của ông. Những tư tưởng đó đã khẳng định vị trí của ông trong hàng ngũ những nhà tư tưởng trưởng thành từ nghiệp y cũng như trong lịch sử tư tưởng dân tộc.
Ngay từ những năm đầu thế kỉ XX đã xuất hiện những công trình nghiên cứu về tư tưởng và sự nghiệp của Lê Hữu Trác. Đó là các bài viết của Nguyễn Trọng Thuật đăng trên báo" Nam Phong" năm 1923, và tác phẩm"Tân thuyên Hải Thượng Y tông tâm lĩnh toàn trật" của Vũ Xuân Hiên. Đặc biệt những tác phẩm của Lê Hữu Trác đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu nước ngoài như tác phẩm"Lãn Ông et la medicine Sino- Vietnamese"(Lãn Ông và nền Đông y Việt Nam) của hai tác giả P. Huard và Durand.
Năm 1970, nhân kỉ niệm 250 năm ngày sinh của Lê Hữu Trác, một hội thảo khoa học về ông đã được tổ chức ở Hà Nội và tập kỉ yếu của hội thảo này đã được xuất bản. Bên cạnh đó còn có tác phẩm"Hải Thượng Lãn Ông- nhà y học lớn, nhà văn hoá lớn" của tác giả Nguyễn Văn Thang, và nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như: "Hải Thượng Lãn Ông- một nhân cách sáng chói trong lịch sử y học Việt Nam" của Ngô Trọng Kim đăng trên tạp chí"Y học cổ truyền Việt Nam" số 309...nhưng những công trình viết về tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong bộ"Hải Thượng Y tông tâm lĩnh" là còn rất ít. Mảng nghiên cứu này hầu như còn bỏ ngỏ, đáng chú ý nhất là bài viết"Lê Hữu Trác- nhà tư tưởng lớn trưởng thành từ nghiệp y" trong cuốn" Lịch sử tư tư tưởng Việt Nam"(tập 1) của Nguyễn Tài Thư và"Cơ sở triết học của bộ "Lãn Ông Tâm lĩnh" và hiện thực lịch sử nước ta hồi thế kỉ 18" của tác giả Nguyễn Đức Sự. Tuy nhiên trong các bài viết này , các tác giả mới chỉ cung cấp cho người đọc một cái nhìn chung và khái quát nhất về tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong"Hải Thượng Y tông tâm lĩnh". Xuất phát từ nền tảng này, niên luận bước đầu đi vào tìm hiểu tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong một tác phẩm cụ thể của ông là:"Phụ đạo xán nhiên".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: vạch ra những tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong" Phụ đạo xán nhiên".
Nhiệm vụ nghiên cứu: chỉ ra được những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác(bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỉ XVIII và cuộc đời- sự nghiệp của Lê Hữu Trác); và làm rõ nhữngtư tưởng về thế giới quan và nhân sinh quan của ông được thể hiện trong"Phụ đạo xán nhiên".
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nội dung tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác trong"Phụ đạo xán nhiên".
Phạm vi nghiên cứu: xoay quanh những vấn đề có liên quan đến những tư tưởng triết học trong"Phụ đạo xán nhiên".
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận.
Cơ sở lý luận: lịch sử triết học Trung Quốc, lịch sử Việt Nam và lịch sử tư tưởng và tư tưởng triết học Việt Nam.
Phương pháp luận: trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , niên luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp lôgic- lịch sử, phương pháp tổng hợp và phương pháp nghiên cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa nghiên cứu
Niên luận bước đầu đi vào tìm hiểu tư tưởng triết học của Lê Hữu Trác thể hiện trong một tác phẩm cụ thể, để từ đó có thể mở rộng việc tìm hiểu tư tưởng trong các tác phẩm khác.
7. Kết cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, niên luận gồm 2 chương, 4 tiết.
CHƯƠNG 1. HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỉ XVIII
Từ thập kỉ đầu của thế kỉ XVI nhà nước tập quyền phong kiến Lê sơ bước vào thời kì suy thoái trầm trọng, đến các đời vua Uy Mục(1505-1509), và Tương Dực(1509-1516) thì chính quyền Lê sơ đã mục nát lắm rồi. Năm1727, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra nhà Mạc. Một cuộc xung đột giữa các phe phái phong kiến xảy ra và đất nước lại lâm vào cảnh chiến tranh. Lúc đầu là giữa chính quyền nhà Mạc và chính quyền họ Trịnh dưới danh nghĩa phù Lê kéo dài trong gần 50 năm(1546-1592), ngay sau đó là sự phân chia đất nước thành Đàng Ngoài và Đàng Trong cùng chiến tranh Trịnh - Nguyễn.
Chiến tranh liên miên đã làm cho sức, người sức của bị tiêu huỷ , sản xuất bị sút kém, nhiều nông dân phải bỏ làng ra đi. Ruộng đất vốn đã ít ỏi lại bị bỏ hoang, thêm vào đó thiên tai ập đến liên tiếp. Trong nửa đầu thế kỉ XVIII đãcó 11 lần thiên tai trong đó có 8 lần thiên tai gây lụt lội. Thời kì này đã xảy ra 12 nạn đói lớn như nạn đói năm1713 khi trời hạn hán mất mùa thì"dân phải ăn vỏ cây, rễ cỏ, chết đói đầy đường, làng xóm tiêu điều hiu quạnh" Nguyễn Quang Ngọc chủ biên(2000), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.167.
và năm 1741- "... dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường... chết đói chồng chất lên nhau" Theo Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr.67.
.
Cùng với sự suy thoái của nông nghiệp là sự đình đốn của công thương khi các thương cảng sầm uất của thế kỉ trước như Thăng Long, Phố Hiến...trở nên hoang phế. Thêm vào đó là chế độ thuế khoá và sưu dịch nặng nề, nạn tham nhũng hoành hành, tệ quan liêu ức hiếp dân chúng tràn lan đến độ" nông thương đều thất nghiệp, dân khổ không chịu nổi". Có thể nói vào thế kỉ XVIII, kinh tế Đàng Ngoài lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Phong trào nông dân nổi lên ở nhiều nơi, sử sách đầu thế kỉ XVIII chép nhiều về hiện tượng giặc giã, trộm cướp, đảng ngụy nổi lên khắp nơi. Đó là dấu hiệu báo trước thời kì bùng nổ của phong trào nông dân. Cuộc khởi nghĩa lớn đầu tiên nổ ra vào năm 1737 dưới thời chúa Trịnh Giang do nhà sư Nguyễn Dương Hưng lãnh đạo ở vùng Tam Đảo. Chỉ trong vòng hơn 30 năm, chính quyền Đàng Ngoài đã phải đối phó với hàng chục cuộc nổi dậy, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật(1738-1770), Hoàng Công Chất(1739-1769), khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương(1740-1751) và của Nguyễn Hữu Cầu còn gọi là Quận He(1741-1751). Đến năm 1770, các cuộc khởi nghĩa nông dân hầu như đã bị dập tắt, nhưng hơn 30 năm phát triển rầm rộ của các phong trào đã làm rung chuyển cả Đàng Ngoài. Cơ đồ thống trị của tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh lung lay đến tận gốc. Những điều chỉnh nhất thời trong chính sách cai trị của chính quyền phong kiến cũng đã không thể cứu vãn nổi tình hình.
Ở Đàng Trong, sau một thời gian phát triển mạnh mẽ, từ thế kỉ XVIII cũng lâm vào khủng hoảng sâu sắc và trầm trọng. Hai nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Đàng Trong là kinh tế hàng hoá và nông nghiệp hàng hoá và ngoại thương thời kì này có chiều hướng sa sút nghiêm trọng. Lúc này tàu buôn phương Tây hầu như không đến nữa, tàu buôn nước ngoài tham gia vào hoạt động ngoại thương ở Đàng Trong chủ yếu chỉ còn các thương nhân Hoa kiều. Trong nông nghiệp, ruộng đất bỏ hoang ngày càng nhiều. Các ngành thủ công nghiệp, khai thác lâm sản cũng sa sút nghiêm trọng. Kinh tế suy thoái đã kéo theo sự suy đồi về chính trị , những mâu thuẫn trong xã hội trở nên gay gắt. Phong trào nông dân nổ ra và phát triển nhanh chóng mà tiêu biểu là phong trào Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Đây là hệ quả tất yếu của những biến đổi trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Đó là mâu thuẫn giữa những người nông dân và chính quyền phong kiến, đây là mâu thuẫn chủ yếu nhất trong xã hội nước ta thời kì này. Bên cạnh đó còn là mâu thuẫn trong nội bộ của giai cấp phong kiến giữa vua Lê-chúa Trịnh, giữa tập đoàn phong kiến họ Trịnh ở Đàng Ngoài và tập đoàn họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Trải qua nhiều biến động, Nho giáo vẫn là công cụ chính của các tập đoàn phong kiến sử dụng để xây dựng chính quyền và củng cố trật tự xã hội. Giáo dục vẫn lấy nội dung trong Tứ thư, Ngũ kinh. Các tập đoàn phong kiến đều ra sức tổ chức các kỳ thi, tăng cường số lượng tầng lớp sĩ phu. Tính đến khoa thi cuối cùng năm 1787, triều Lê trung hưng đã tổ chức được 68 kỳ thi Đình, chọn được 717 tiến sĩ. Ngoài ra triều Lê còn tổ chức bổ sung các khoa chế khoa, thịnh khoa, khoa sĩ vọng để lấy thêm các tiến sĩ không theo con đường thi cử chính quy. Trong các kỳ thi ấy xuất hiện không ít những người tài giỏi có tâm huyết với đất nước. Tuy nhiên khi thiết chế nhà nước trở nên rệu rã, kỷ cương phép nước bị buông lỏng, tư tưởng thực dụng len lỏi vào mọi quan hệ xã hội, việc học hành thi cử ngày càng bộc lộ những mặt hạn chế và tiêu cực. Nội dung thi cử khuôn sáo , hiện tượng gian lận thi cử, hối lộ tràn lan đến nỗi''sinh đồ 3 quan đầy cả thiên hạ". Nhận xét về tình trạng thi cử thời kì này, nhà sử học Phan Huy Chú viết:"... Các quan trường ra đề dùng Tứ thư, Sử, Tứ lục, độ hơn 10 bài; phú độ hơn 5, 3 bài. Đầu đề đặt sẵn, không có thay đổi gọi là Sử thư. Bọn học giả nhiều người làm bài sẵn đem bán. Học trò đi thi tíu tít hỏi mua lấy những bài ấy học thuộc lòng, hoặc dấu đem vào trường cứ thế mà viết..." Theo Hoàng Thu Hương(2000), Tìm hiểu triết lí nhân sinh của Hải Thượng Lãn Ông trong sự nghiệp Đông y Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân, Khoa Triết học, Hà Nội, tr.7
. Tính cách thanh cao của nho sĩ bị thói mưu lợi cầu danh lấn át, "người đỗ hương cống mà chưa thông nghĩa lý câu văn, vừa đỗ xong đã ngấp nghé làm quan" là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ. Như thế kỉ XV, nho sĩ vẫn là những người trí thức, những nhà tư tưởng đương thời của xã hội. Nhưng khác với tầng lớp họ ở các thế kỉ trước, các nhà nho thế kỉ XVIII phải đối diện với một đất nước triền miên trong loạn lạc, trong cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn, trong sự chia cắt của non sông và thể chế chính trị. Chính vì thế trong tầng lớp nho sĩ cũng có sự phân hoá sâu sắc theo hai hướng chủ yếu là xử và xuất. Xử là chủ trương xuất thế ra làm quan, còn xuất là học ra làm quan nhưng bất mãn với thời cuộc nên lui về ở ẩn. Nhưng ngay trong mỗi xu hướng cũng có sự phân hoá rất khác nhau. Trong xu hướng thứ nhất, các nhà nho đã vận dụng những giáo lý Nho giáo xoay quanh những phạm trù đạo đức và tiêu chuẩn đánh giá con người không giống nhau, đặc biệt là trong quan niệm về chữ"trung". Chữ"trung" truyền thống theo đúng giáo lý của đạo nho nghĩa là chỉ trung với một con người, một dòng họ như"... Trần Danh Án thì nguyện trung với vua như"hoa quỳ khô vẫn hướng về mặt trời", "dù chết vẫn giữ cương thường" (Liễu An tản ông thi tập) và Nguyễn Hành"ăn lộc chết vì vua...nguyện đến tuổi già vẫn giữ gìn khí tiết..." (Minh Quyên thi tập)" Theo Hoàng Thu Hương, Sđd, tr.9
. Trong khi đó thì có những người có quan điểm thức thời tiến bộ, hiểu về trung nghĩa với lý tưởng cứu dân cứu nước. Trung là trung với đấng minh quân, họ không do dự hợp tácvới nhà Tây Sơn, phò tá Nguyễn Huệ vì nghĩa lớn tiêu biểu là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan... Trong khuynh hướng thứ hai, các nhà nho tuy về ở ẩn song thực chất con đường đi của họ cũng không giống nhau. Một bộ phận tìm đến sự dung thông giữa triết lý Nho giáo với các tư tưởng triết học, tôn giáo khác như Nho-Lão Trang trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nho-Đạo giáo trong các tác phẩm của Nguyễn Dữ...Một hướng khác là tuy lánh đời nhưng vẫn tích cực xuất thế làm việc giúp đời như bốc thuốc, dạy học mà tiêu biểu cho khuynh hướng này là Lê Hữu Trác.
1.2.Cuộc đời và sự nghiệp
Lê Hữu Trác sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý(tức ngày 11 tháng 12 năm 1720). Nguyên quán ở thôn Văn Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương(nay là xã Liêu Xá, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên). Quê mẹ ở xứ Bầu Thượng, xã Tình Diệm(nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).
Hiệu"Hải Thượng" của ông ghép từ chữ"Hải" của tên tỉnh Hải Dương và chữ "Thượng" của tên phủ Thượng Hồng, bạn của xứ Bàu Thượng. Tên"Lãn Ông" có nghĩa là ông già lười, người không ham danh lợi.
Hải Thượng Lãn Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Ônh nội là Lê Hữu Mưu đậu Nhị giáp Tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng thư dưới triều Lê Dụ Tông, được tặng phong tước Bá. Bác là Lê Hữu Hỷ, làm giám sát ngự sử, cũng tước Bá. Chú là tiến sĩ Lê Hữu Kiều, làm Thượng thư Bộ Lễ, tước Quận công. Cha là Lê Hưu Mưu, đỗ Tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang bộ Công, gia phong chức Ngự sử, tước Bá. Mẹ là Bùi Thị Thường, con gái tướng công Bùi Đăng Diệm. Anh trai của ông là Lê Hữu Kiển và em con chú là Lê Hữu Dung cũng đều đậu tiến sĩ và làm quan trong trong triều.
Ông là con thứ bảy trong gia đình, được theo cha lên kinh thành Thăng Long học. Hồi nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi, hiểu rộng, thơ hay.
Năm ông 20 tuổi(tức năm Kỷ Mùi-1739) không may cha ông qua đời, ông tiếp tục đọc sách, đi thi Tam trường nhưng không đỗ. Sau đó, ông không đi thi thêm một lần nào nữa. Ông học binh thư, luyện võ và vào quân đội chúa Trịnh năm 1740. Thuộc dòng dõi trâm anh nên ông được cử làm tướng, ông cầm quân thường thắng trận. Thống soái của chúa Trịnh nể tài ông, bao phen tiến cử nhưng chán ghét cảnh binh đao, ông tìm mọi cách để từ chối. Nhân có tin người anh ruột thứ năm là Lê Hữu Chân mất để lại ba con nhỏ, ông xin xuất ngũ về quê nuôi mẹ là bà Bùi Thị Thường và giúp đỡ gia đình người anh. Ông làm bài thơ ngẫu cảm thể hiện chí khí không thực hiện của mình:
"Thanh gươm mài giũa mười niên,
Hào quang muôn trượng, vung lên sáng ngời.
Sấm mây chuyển cả bầu trời,
Lung lay tinh tú, rã rời tuyết sương.
Việc đời dang dở dở dang,
Vào Tần về Hán đôi đàng không xong.
Bấy lâu hồ hải vẫy vùng,
Đời người tráng sĩ cõi lòng như điên." Theo Lê Hữu Trác(2000), Hải Thượng Y tông tâm lĩnh, tập. 2, NXB Y học, Hà Nội, tr.21
Về quê không bao lâu ông ốm nặng, chạy chữa vài năm không khỏi, phải chuyển đến Rú thành(ở Nghệ An). Ở đây ông được cụ lương y Trần Độc chữa bệnh. Trong thời gian hơn một năm ở đó, ông đọc sách thuốc, có điều gì không hiểu được cụ Trần giảng giải cho. Khi khỏi bệnh ông về nhà tiếp tục tìm sách đọc thêm và trao đổi với một lương y khác cũng họ Trần ở làng Đậu Xá ở bên cạnh. Ông học hỏi thêm vài năm nữa và bắt đầu hành nghề y. Mùa thu năm 1754, ông ra kinh đô mua thêm sách thuốc mang về. Nhờ thông minh, chăm chỉ , có quyết tâm theo hướng mà mình đã chọn, nghề thuốc của ông có nhiều tiến bộ, ông trở nên nổi tiếng khắp vùng châu Hoan(nay là Nghệ Tĩnh).
Năm 1760, ông viết sách và dạy nghề thuốc cho nhiều môn đệ. Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 43(năm 1782), chúa Trịnh triệu ông ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh. Các bài thuốc ông kê ra đều có phần hiệu nghiệm tuy nhiên vốn không ham cảnh nhộn nhịp của kinh đô, ông tìm mọi cách cáo về. Quả nhiên chỉ ít lâu sau đã xảy ra nạn kiêu binh, quan Chánh đường tức Hoàng Đình Bảo, người đã giúp đỡ ông khi còn ở Thăng Long bị giết vì liên quan đến phe của Đặng Thị Huệ.
Về quê, ông tiếp tục bổ sung bộ "Y tông tâm lĩnh" và viết thêm tập"Thượng kinh ký sự". Tập này cung cấp thêm tư liệu văn học giá trị, phản ánh người và việc trong thời đại phong kiến lúc bấy giờ.
Kết luận chương 1
Lê Hữu Trác sinh ra trong một thời đại lịch sử có nhiều biến động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đất nước bị phân cắt ra thành Đàng Ngoài và Đàng Trong, Đàng Ngoài có vua Lê-chúa Trịnh, Đàng Trong từ đèo Ngang trở vào do các chúa Nguyễn cai quản. Chiến tranh Trịnh-Nguyễn kéo dài liên miên. Phong trào nông dân nổ ra ở nhiều nơi mà tiêu biểu nhất là phong trào Tây Sơn. Kinh tế sa sút, nạn trộm cướp cường hào hỗn loạn . Xã hội lâm vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc và trầm trọng.
Trước tình hình trên, tư tưởng sĩ phu nhiều người hoang mang. Một số thì tiếp tục lý tưởng trung quân truyền thống trong Nho giáo, cũng có những người thức thời, hiểu khái niệm "trung quân" theo nghĩa tiến bộ như Ngô Thì Nhậm..., một số người thì chọn cho mình con đường từ quan về ở ẩn. Đứng trước sự phân hoá trong hàng ngũ các nhà nho, Lê Hữu Trác đã tìm cho mình một hướng đi riêng mà trong Y huấn ông viết:"...cái chí bon chen trong trường danh lợi mình đã vứt bỏ từ lâu...Nghề y thiết thực ích lợi cho minhf, giúp đỡ được mọi người..." Theo Lê Hữu Trác, Sđd, tr.6
. Hướng đi ấy có tính chất lí tưởng hoá bản tính và chỉ đạo toàn bộ hoạt động của ông từ đó về sau.
CHƯƠNG 2:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA LÊ HỮU TRÁC TRONG TÁC PHẨM
"PHỤ ĐẠO XÁN NHIÊN"
2.1. Quan niệm về thế giới quan và phương pháp luận
Nghề nghiệp chính của Lê Hữu Trác là thăm bệnh bốc thuốc, chữa bệnh cho con người. Nhưng nghề này không đơn thuần chỉ là công việc kê cứu bệnh tật và thuốc thang mà đằng sau nó còn có cả một hệ thống y lý có liên quan tới thế giới quan chung của con người. Từ y lý đến triết lý rồi lại từ triết lý đến y lý, ở Lê Hữu Trác là một quá trình được lặp lặp lại và được thực hiện một cách tự giác.
Lê Hữu Trác rất quan tâm đến mối liên hệ giữa y học và thế giới quan triết học, với sự hiểu biết về những vấn đề chung của toàn bộ thế giới và những qui luật của thế giới. Ông khẳng định:"...Không thông hiểu trời đất người, không thể gọi là nhà y. Lại có câu: Phải học Kinh dịch trước, rồi sau mới có thể nói đến y lý vì lý của âm dương là lý của y học..."Trích theo Nguyễn Đức Sự(1977),"Cơ sở triết học của bộ "Lãn Ông tâm lĩnh và hiện thực lịch sử ở nước ta hồi thế kỷ18", Tạp chí Triết học(4), tr.90
và "Hiền triết đời xưa nói: Học kinh Dịch đã rồi mới có thể nói đến học thuốc". Nhưng nói học Kinh Dịch không phải nói học những hào, những quẻ, những từ của Kinh Dịch mà chỉ cần học biết cái thể biến hoá của âm dương, cái dụng sinh khắc của Ngũ hành..." Trích theo Nguyễn Đức Sự, Sđd, tr.91
. Bấy nhiêu điều đó đủ khẳng vị trí quan trọng của các khái niệm âm dương ngũ hành trong hệ thống triết học của ông. Âm dương ngũ hành có thể được coi là diểm xuất phát cho mọi quan niệm của Lê Hữu Trác trong " Hải Thượng Y tông tâm lĩnh" nói chung và trong" Phụ đạo xán nhiên" nói riêng. Bên cạnh đó Lê Hữu Trác còn chịu ảnh hưởng về quan niệm về hình và khí trong triết học Tống Nho của Chu Đôn Di , Trình Di, Trình Hạo..., tinh và khí trong học thuyết của Đạo gia. Sự tiếp thu các tinh hoa của nền triết học cổ đại Trung Quốc này không phải là một hiện tượng riêng lẻ ở thế kỉ XVIII vì ta có thể nhận thấy sự xuất hiện của nó trong một số trước tác của các học giả cùng thời như Lê Quí Đôn với "Vân Đài loại ngữ", "Bùi Gia huấn hài" và "Nghệ An ký" của Bùi Dương Lịch.
Lê Hữu Trác đã vận dụng và phát triển các nguyên lý trên trong việc giải thích các bệnh lý trong"Phụ đạo xán nhiên" đặc biệt trong các chương viết về Cầu tự , Tổng luận về sự thụ thai. Ông khẳng định âm dương, hình- khí là nguồn gốc phổ biến của sự sản sinh ra muôn vật và con người:" Đức lớn của trời đất gọi là"sinh", sự sinh sôi nảy nở tràn ngập khắp nơi, sao đến ta lại riêng ngừng đứt? Người con thảo cháu hiền chẳng nên cầu nguyện trời đất, mạnh dạn tự trách mà nỡ để cho tuyệt tự hay sao? Vì trời là hình lớn nhất, âm dương là khí lớn nhất, hình và khí cùng nhờ nhau mà lập nên, cùng cảm nhau mà sản sinh, chưa từng riêng lẻ được bên nào. "Trai gái cầu tinh, muôn vật hoá sinh". Âm, dương, hình, khí của trời đất ngụ cả vào câu ấy" Theo Lê Hữu Trác,Sđd, tr.265
. Âm dương tuy là mâu thuẫn nhau nhưng lại gắ