Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thế giới nói chung và công nghệ viễn thám nói riêng đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt ảnh viễn thám MODIS là ảnh được cung cấp từ cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia Hoa Kỳ (NASA). Ảnh có độ phủ rộng và độ phân giải thời gian cao đã và đang được nghiên cứu ứng dụng ở nhiều nơi trên thế giới.
Đông Bằng Sông Cửu Long là một trong những vựa lúa lớn nhất cả nước , có diện tích đất canh tác lúa lớn nhất nước với tổng diện tích là 39.734.000 ha. Do đó nông nghiệp ĐBSCL có ảnh hưởng đến việc sản xuất lúa hàng hóa cũng như xuất khẩu của nước ta. Cho đến nay, công tác điều tra thống kê và thành lập bản đồ hiện trạng cũng như theo dõi tiến độ xuống giống và thu hoạch chủ yếu vẫn dựa trên công tác điều tra, khảo sát thực địa, báo cáo. Điều này không đảm bảo độ chính xác và đòi hỏi nhiều thời gian, kinh phí, cũng như không đáp ứng kịp thời nhu cầu ra quyết định, hoạch định chính sách và cũng không đánh giá được hiện trạng thay đổi, cơ cấu mùa vụ và sản lương thực được sản xuất
Xuất phát từ vấn đề trên, đề tài “Ứng dụng ảnh viễn thám MoDis Terra/Aqua trong xác định cơ cấu mùa vụ lúa và hiện trạng sử dụng đất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long” đã được thực hiện với mục tiêu sau:
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích đánh giá về khả năng ứng dụng ảnh vệ tinh thụ động, độ phân giải thấp đa thời gian để thành lập bản đồ hiện trạng và theo dõi tiến độ xuống giống của khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đồng thời đề tài cũng nghiên cứu nhằm tìm ra sự quan hệ giữa các đặc điểm biến động theo thời gian của các đặc điểm ảnh với sự thay đổi của hiện trạng sử dụng đất. Qua đó đối chiếu với kết quả khảo sát và báo cáo định kỳ để đánh giá mức độ chính xác của quá trình giải đoán và khả năng ứng dụng của ảnh.
71 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 5277 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng ảnh viễn thám MoDis Terra-Aqua trong xác định cơ cấu mùa vụ lúa và hiện trạng sử dụng đất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật thế giới nói chung và công nghệ viễn thám nói riêng đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt ảnh viễn thám MODIS là ảnh được cung cấp từ cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia Hoa Kỳ (NASA). Ảnh có độ phủ rộng và độ phân giải thời gian cao đã và đang được nghiên cứu ứng dụng ở nhiều nơi trên thế giới.
Đông Bằng Sông Cửu Long là một trong những vựa lúa lớn nhất cả nước , có diện tích đất canh tác lúa lớn nhất nước với tổng diện tích là 39.734.000 ha. Do đó nông nghiệp ĐBSCL có ảnh hưởng đến việc sản xuất lúa hàng hóa cũng như xuất khẩu của nước ta. Cho đến nay, công tác điều tra thống kê và thành lập bản đồ hiện trạng cũng như theo dõi tiến độ xuống giống và thu hoạch chủ yếu vẫn dựa trên công tác điều tra, khảo sát thực địa, báo cáo. Điều này không đảm bảo độ chính xác và đòi hỏi nhiều thời gian, kinh phí, cũng như không đáp ứng kịp thời nhu cầu ra quyết định, hoạch định chính sách và cũng không đánh giá được hiện trạng thay đổi, cơ cấu mùa vụ và sản lương thực được sản xuất
Xuất phát từ vấn đề trên, đề tài “Ứng dụng ảnh viễn thám MoDis Terra/Aqua trong xác định cơ cấu mùa vụ lúa và hiện trạng sử dụng đất ở Đồng Bằng Sông Cửu Long” đã được thực hiện với mục tiêu sau:
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích đánh giá về khả năng ứng dụng ảnh vệ tinh thụ động, độ phân giải thấp đa thời gian để thành lập bản đồ hiện trạng và theo dõi tiến độ xuống giống của khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đồng thời đề tài cũng nghiên cứu nhằm tìm ra sự quan hệ giữa các đặc điểm biến động theo thời gian của các đặc điểm ảnh với sự thay đổi của hiện trạng sử dụng đất. Qua đó đối chiếu với kết quả khảo sát và báo cáo định kỳ để đánh giá mức độ chính xác của quá trình giải đoán và khả năng ứng dụng của ảnh.
CHƯƠNG 1-LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 Đặc điểm vùng nghiên cứu
1.1.1 Điều kiên tự nhiên
Theo Lê sâm (1996), ĐBSCL nằm ở vùng cực nam của nước Việt Nam, nằm trong vùng từ 8030’ – 110 vĩ bắc và từ 104030’ – 1070 kinh độ đông, gồm 13 tỉnh : Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang. ĐBSCL được giới hạn từ biên giới Việt Nam-Campuchia ở phía Bắc, biển Đông ở phía Nam, vịnh Kiên Giang ở phía Tây và sông Vàm Cỏ Đông ở phía Đông. ĐBSCL có diện tích tự nhiên 3,97 triệu ha, trong đó đất nông nghiệp 2,6 triệu ha, đất lâm nghiệp 253.000 ha, đất khác 277.000 ha, đất chưa sử dụng 927.000 ha, đất hoang 544.000 ha, bãi bồi, ven sông, ven biển, đầm lầy 160.000 ha.
Theo Trần Thanh Cảnh (2000), ĐBSCL với gần 4 triêu ha đất tự nhiên, trong đó có 2,7 ha đất nông lâm ngư nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản, là vùng đồng bằng lớn nhất nước ta và là một vùng đồng bằng lớn nhất Đông Nam Á và Châu Á. Đất đai phì nhiêu, ngồn nước phong phú, nhiệt độ ổn định, ánh sáng dồi dào, quỹ đất nông nghiệp bình quân một hộ 0,7 ha. So với các vùng khác trên cả nước, ĐBSCL có ưu thế hơn hẳn để phát triển một nền nông nghiệp có tỷ suất hàng hóa cao theo định hướng sinh thái đa dạng, phong phú về lương thực, cây ăn trái, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, và cả nghề rừng…
1.1.2 Hình thành và phân loại đất Đồng Bằng Sông Cửu Long
Lịch sử phát triển và hình thành đất vùng ĐBSCL
Theo Trần An Phong (1986), cuối Pleistocence phần lớn đồng bằng Nam bộ không chịu ảnh hưởng của biển, địa hình chủ yếu chịu sự tác động của xâm thực và bào mòn, từ đầu Holocence biển tiến chậm vào đồng bằng, phủ lên những nơi có địa hình thấp hình thành một chế độ biển đông. Trầm tích có tuổi Holocence sớm này phát hiện được ở lổ khoang tại Cần Thơ, có chiều dài 27m so với mặt đất. Ở Cai Lậy, lớp trầm tích này chỉ còn dầy 1m, chứng tỏ biển Holocence sớm chưa ngập đến đây. Vào giữa Holocence biển tiến cực đại trên tòan đồng bằng, tới các vùng Hà Tiên, Châu Đốc, Đồng Tháp Mười. Lúc này ở Cần Thơ, Cai Lậy chìm sâu dưới mặt nước biển. Thời gian tồn tại của biển (Holocence) đã tạo thành một lớp trầm tích dầy 8m ở Cần Thơ và 6m ở Cai Lậy, sau đó biển rút từ từ, hình thành các vùng sinh lầy và rừng ngập mặn.
Rừng nhiệt đới ven biển phát triển mạnh, hình thành nhiều vùng than bùn rộng lớn như U Minh Thượng, song song với quá trình biển rút, vào thời kỳ này, các cửa sông hình thành phù sa bồi đấp dần đất trũng ven sông cùng với sự phát triển các nhánh sông theo dạng chân chim đổ ra biển, tam giác châu thổ hiện đại được hình thành với các giồng cát chạy song song với đường bờ biển, và chỉ còn lại một số vịnh ăn thông với biển và nay vẫn còn rạch trũng, các vùng trũng rộng lớn cũng như các dải trũng hẹp có liên quan rất lớn đến sự phân bố đất phèn hiện nay trên đồng bằng. Sự việc cuối cùng của việc hình thành châu thổ là quá trình bờ biển, dòng chảy ven bờ biển xáo trộn lại thành phần trầm tích, dẫn đến sự hình thành phức hợp bãi bồi, khi phức hợp bờ biển phát triển bao vây lại, hình thành lên vùng trũng Tây sông hậu. Các trầm tích có liên quan đến đất phèn điều gắn với đầm lầy biển, khi các trầm tích đầm lầy biển nông có rừng ngập mặn phát triển cực thịnh là điều kiện tích lũy lưu huỳnh trong mẫu chất, là yếu tố quyết định đến sự hình thành đất phèn hiện nay, do vậy việc phân bố các vùng phèn hiện nay trên ĐBSCL. Nhìn chung, rất phù hợp với sự tạo thành trầm tích đầm lầy hoặc hổn hợp có trầm tích đầm lầy sông biển.
Theo Tôn Thất Chiểu và ctv (1991), ở ĐBSCL móng đã lộ ra chiếm khoãng 5% diện tích, hầu hết diện tích còn lại là lớp trầm tích bởi rời tuổi Holocence, chính đặc điểm này đã chi phối quy luật phát sinh đất ở đồng bằng này. Sự chuyển động của sông lớn (sông Tiền và sông Hậu ) và sự tiến dần ra biển của đồng bằng phù sa dưới sự ảnh hưởng của đứt gãy và sự chuyển động của móng đá, đã để lại những vùng trũng rộng lớn (đầm Đồng Tháp Mười, Bắc Hà Tiên, Hồng Dân, U Minh,…) là những khu vực chứa phèn tập trung quan trọng ở ĐBSCL.
Sự chuyển động âm thầm của móng đá, cộng với sự vận động liên tục của sóng triều sông - biển đã tạo nên những cấu trúc trầm tích tương phản và xen kẹp lẫn nhau ở một số nơi: Đồng Tháp cấu trúc phèn bị cấu trúc phèn chia cắt ; ở U Minh cấu trúc không phèn bị cấu trúc không phèn xâm nhập, điều này giải thích một số nơi trong vùng đất phèn Đồng Tháp Mười có ưu thế sản xuất nông nghiệp hơn hẳn toàn vùng.
Biển càng lùi dần, trầm tích ngọt của đồng lụt dần từ sông Hậu, sông Tiền ra phía biển và các vùng biển, lấp các chổ trũng và phủ luôn những bờ (Bắc Hà Tiên, Đồng Tháp Mười,..) có gần 70% diện tích đồng bồi phù sa, hiện nay ở ĐBSCL chịu sự chồng lấp này, kéo theo sự biến đổi trầm tích trong từng khu vực.
Tóm lại, những khảo sát về trầm tích hiện nay đã cho phép xác nhận mối tương quan chặt chẽ có tính qui luật giữa cấu trúc trầm tích và sự hình thành thổ nhưỡng. Cấu trúc trầm tích ở ĐBSCL chịu sự tương tác qua lại của biến động móng đá sâu và mức độ bồi tích. Sự tương tác này hình thành những qui luật chi phối phát sinh địa mạo và thổ nhưỡng trên toàn vùng đồng bối phù sa ĐBSCL.
Một cách tổng quát, có thể chia đất ĐBSCL thành 4 nhóm đất chính:
- Nhóm đất mặn: chiếm khoảng 800.000 ha (21%) phân bố dọc theo bờ biển. Thiếu nước ngọt và bị nhiễm mặn vào mùa khô làm hạn chế chính trong sản xuất lúa ở vùng này. Thêm vào đó, rừng đước bị chôn vùi lâu năm dưới lớp đất phù sa tạo nên loại đất phèn tiềm tàng và hiện tại kết hợp với mặn càng làm cho việc sản xuất lúa gặp nhiều khó khăn hơn. Ở các vùng đất phù sa bị nhiễm mặn, lúa bị độc chủ yếu do sự tích lũy ion Cl- và Na+. Ở đây chỉ trồng lúa được trong mùa mưa khi các độc chất đã được rửa trôi (nồng độ muối phải dưới 2) và phải thu hoạch khi dứt mưa.
- Nhóm đất phèn: Chiếm khoảng 1,6 triệu ha (41%), với khoảng 500.000 ha (13%) phèn hiện tại và 1,1 triệu ha đất phèn tiềm tàng (28%) có pH rất thấp, tập trung ở vùng trũng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và Tây Nam sông Hậu. Ở vùng này, việc trồng lúa gặp trở ngại rất nghiêm trọng. Đất phèn chứa nhiều loại muối hòa tan cao mà thành phần chủ yếu là sulfat sắt và sulfat nhôm. Ba khu vực đất phèn chủ yếu Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và Tây Nam sông Hậu.
- Nhóm đất phù sa: Chiếm khoảng 1,1 triệu ha (28%) nằm ven sông Tiền và sông Hậu. Đất phù sa là đất được hình thành và phát triển trên trầm tích biển và sông ngòi.
Khu vực ven sông Tiền và sông Hậu, các kênh đào nước ngọt là các vùng phù sa ngọt màu mỡ không bị ảnh hưởng của mặn, phèn. Tùy theo địa hình, khoảng cách từ sông rạch và mức độ phát triển của đất người ta phân biệt đất phù sa ven sông chưa phân hóa, đất phù sa phát triển có tầng loang lỗ đỏ vàng và đất phù sa glay ở đầm lầy xa sông. Đây là vùng rất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp đặc biệt là sản xuất lúa, cây ăn màu và rau màu.
- Nhóm đất đồi núi và than bùn: Chiếm khoảng 400.000 ha (10%). Đất đồi núi tập trung vùng Bảy Núi (An Giang) và Hà Tiên, rất thích hợp cho việc trồng hoa màu, nhưng độ màu mỡ thấp, thiếu nước và dễ bị xói mòn. Đất than bùn tập trung ở vùng rừng U Minh thuộc hai tỉnh Kiên Giang và Cà Mau. Ngộ độc hữu cơ là trở ngại chính trong việc canh tác ở vùng này.
Tóm lại, ĐBSCL với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ cao và ít biến động trong năm, lượng bức xạ dồi dào là điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa. Tuy nhiên, do lượng mưa nhiều nhưng phân bố không đều, đất đai, địa hình phức tạp đã giới hạn năng suất lúa rất nhiều và hình thành những vùng trồng lúa khác nhau với chế độ nước, cơ cấu giống lúa, mùa vụ, tập quán canh tác rất đa dạng (Nguyễn Ngọc Đệ 2009).
1.2 Sơ lược về hiện trạng sử dụng ở Đồng bằng sông Cửu Long
1.2.1 Hiện trạng sử dụng đất vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long trong thời gian qua
Theo Trần An Phong (1986) thực trạng sử dụng đất ở ĐBSCL như sau:
Trước 1975: Trong lịch sử khai thác vùng ĐBSCL trước đây, thực dân Pháp đã coi nơi đây là vựa lúa của nước ta và khai thác tài nguyên vùng này, làm cho tốc độ mở mang diện tích và dân số ở đây trong một thời gian ngắn đã tăng lên rất nhanh. Từ năm 1867- 1880, diện tích canh tác chỉ có 420.000ha, chỉ đến năm 1930 đã lên đến 2.110.000 ha, dân số từ 1.700.000 (1880) đã tăng lên đến 4.500.000 vào năm 1930. Lịch sử khai thác sử dụng đất cho thấy ĐBSCL là vùng đất trẻ mới được khai thác, chủ yếu trong 2-3 thế kỷ nay. Đặc biệt trong vòng 30 năm đầu của thế kỷ này, công cuộc khai phá tăng rất nhanh, nhưng đến 50 mươi năm gần đây (1930-1984), diện tích canh tác mới tăng thêm chỉ 24 vạn ha.
Sau năm 1975: Dựa trên kết quả điều tra thống kê ruộng đất năm 1978-1980 và sau 4 năm (1980-1984) cho thấy đất trồng cây hàng năm toàn vùng chiếm 87,4% diện tích đất nông nghiệp, trong đó tuyệt đại đa số là đất trồng lúa 81% (1.983,000 ha), chiếm gần 1/2 diện tích canh tác lúa của cả nước.
Theo Tôn Thất Chiểu và ctv (1991), trong thời kỳ phong kiến của triều đình nhà Nguyễn, khi người Việt mới đặt chân đến vùng đất ĐBSCL, vùng này vẫn còn là một hệ thống đồng bằng hoang vu chưa được khai phá. Một số tư liệu nghiên cứu lúc bấy giờ đã cho thấy rằng người dân mới định canh ở ĐBSCL đã nhanh chóng thích ứng và sử dụng hợp lý từng loại đất cho từng mục tiêu sản xuất nông nghiệp,chủ yếu là lúa, từ áp dụng các biện pháp thủy lợi như rửa mặn, rửa phèn đến các biện pháp sinh học như chọn lúa chịu phèn, chịu mặn.
Theo Lê Quang trí (1998), áp lực lên nguồn tài nguyên đất đai của hành tinh chúng ta sẽ gia tăng một cách đáng kể trong một vài thập niên tới. Do đó, lượng đất hữu dụng để cung cấp lương thực và các nhu cầu khác của con người sẽ bị giảm. Sự suy thoái đất đai gây ra bởi con người đã được tính đến trong vài thập kỷ qua. Hiện tượng rõ nhất trong đất là sự mất dần chất hữu cơ và dinh dưỡng là những chất cần thiết để tạo sinh khối do quá trình quản lý đất không đúng kèm theo là những tác động ảnh hưởng của sự xói mòn bởi gió và nước. Nguyên nhân chính hiện nay gây nên sự suy thoái chất lượng đất chính yếu trên bề mặt của trái đất là do: mặn hóa, phèn hóa và gia tăng nồng độ kim loại nặng và các chất khác trong đất.
1.2.2 Tình hình sản xuất lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), ĐBSCL, từ sau năm 1975 đến nay việc sản xuất lúa đã vươn lên mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của hệ thống thủy lợi và thủy nông nội đồng, cùng những tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi trên đồng ruộng, trở thành vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo xứng đáng của cả nước. Từ vùng lúa nổi tiếng An Giang, Đồng Tháp, vùng trũng phèn Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, với chỉ một vụ lúa mùa, năng suất thấp và bấp bênh… nay đã chuyển dần thành vùng lúa 2 – 3 vụ ngắn ngày năng suất cao, ổn định; cộng với những hệ thống canh tác đa dạng, đã góp phần rất đáng kể vào sản lượng lương thực và lượng nông sản hàng hóa xuất khẩu hàng năm của cả nước. Năng suất bình quân toàn năm của cả đồng bằng đã gia tăng từ 2,28 tấn/ha (1980) đến 3,64 tấn/ha (1989) và 4,8 tấn/ha (2004), cá biệt có một số huyện có thể đạt được năng suất bình quân trên 6,5 tấn/ha/vụ và 12 – 17 tấn/ha/năm với 2 – 3 vụ lúa (Nguyễn Ngọc Đệ, 2006)
1.2.3 Các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa.
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), đời sống cây lúa bắt đầu từ lúc hạt nảy mầm cho đến khi lúa chín. Có thể chia ra thành 3 giai đoạn chính: Giai đoạn tăng trưởng (sinh trưởng dinh dưỡng), giai đoạn sinh sản (sinh dục) và giai đoạn chín.
Giai đoạn tăng trưởng
Giai đoạn tăng trưởng bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến khi cây bắt đầu phân hóa đòng. Giai đoạn này cây bắt đầu phát triển về thân lá, chiều cao tăng dần và ra nhiều chồi mới (nở bụi). Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thước lá ngày càng lớn giúp cây lúa nhận nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ dinh dưỡng, gia tăng chiều cao, nở bụi và chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Thời điểm có chồi tối đa có thể đạt được trước, cùng lúc hay sau thời kỳ bắt đầu phân hóa đòng tùy theo giống lúa
Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn sinh sản bắt đầu từ lúc phân hóa đồng đến khi lúa trổ bông. Giai đoạn này kéo dài khoảng 27 – 35 ngày, trung bình 30 ngày và giống lúa dài ngày hay ngắn ngày thường không khác nhau nhiều. Lúc này, số chồi vô hiệu giảm nhanh, chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vươn dài của 5 lóng trên cùng. Đòng lúa hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi bẹ của lá cờ: lúa trổ bông. Trong suốt thời gian này, nếu đầy đủ dinh dưỡng, mực nước thích hợp, ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và thời tiết thuận lợi thì bông lúa sẽ hình thành nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt được kích thước lớn nhất của giống, tạo điều kiện gia tăng trọng lượng hạt sau này.
Giai đoạn chín
Giai đoạn chín bắt đầu từ lúc trổ bông đến lúc thu hoạch. Giai đoạn này trung bình khoảng 30 ngày đối với hầu hết các giống lúa ở vùng nhiệt đới. Giai đoạn này cây lúa trải qua các thời kỳ sau:
- Thời kỳ chính sữa (ngậm sữa): các chất dự trữ trong thân lá và sản phẩm quang hợp được chuyển vào trong hạt. Hình 3.3. Kích thước và trọng lượng hạt gạo tăng dần làm đầy vỏ trấu. Bông lúa nặng cong xuống. Hạt gạo chứa một dịch lỏng màu trắng đục như sữa, nên gọi là thời kỳ lúa ngậm sữa.
- Thời kỳ chín sáp: hạt mất nước, từ từ cô đặc lại, lúc bấy giờ vỏ trấu vẫn còn xanh.
- Thời kỳ chín vàng: hạt tiếp tục mất nước, gạo cứng dần, trấu chuyển sang màu vàng đặc thù của giống lúa, bắt đầu từ những hạt cuối cùng ở chót bông lan dần xuống các hạt ở phần cổ bông, lá già rụi dần.
- Thời kỳ chín hoàn toàn: Hạt gạo khô cứng lại, ẩm độ hạt khoảng 20% hoặc thấp hơn, tùy ẩm độ môi trường, lá xanh chuyển vàng và rụi dần. Thời điểm thu hoạch tốt nhất là khi 80% hạt lúa ngã sang màu trấu đặc trưng của giống
1.2.4 Mùa vụ sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long
Thực trạng thời vụ sản xuất lúa hiện nay
Theo nhận định của Cục trồng trọt (2006), về thực trạng sản xuất lúa ở ĐBSCL như sau:
Đồng bằng sông Cửu Long với 6 tiểu vùng sinh thái là Đồng Tháp Mười; Tứ giác Long Xuyên; Phù sa giữa sông Tiền, sông Hậu; Ven biển nam Bộ; Bán đảo Cà Mau. Từng tiểu vùng có điều kiện tự nhiên về đất đai, thời tiết, khí tượng thủy văn, hệ canh tác, kỹ thuật, tập quán canh tác… khác nhau do vậy mùa vụ canh tác lúa cũng mang tính đặc thù của từng tiểu vùng.
Trong nhiều năm qua, do điều kiện tự nhiên, ưu thế của từng vùng và do sự phát triển kinh tế nông nghiệp của địa phương mà hình thành cơ cấu cây trồng và thời vụ lúa khác nhau trong năm. Hệ thống mùa vụ lúa của các tinh ĐBSCL đã trở nên rất phức tạp.
Sản xuất lúa tại ĐBSCL còn chịu ảnh hưởng rất lớn của đặc điểm thời tiết, khí hậu Nam bộ, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 (tập trung vào giữa vụ Hè Thu và trong vụ Thu Đông), mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau (cuối vụ mùa và vụ Đông Xuân) gây hiện tượng thừa, thiếu nước trong từng vụ.
Ngoài ra còn có một mùa lũ từ sông Mê Kông bắt đầu từ tháng 6, 7 và đỉnh cao vào tháng 9, 10 hàng năm ảnh hưởng đến một vùng sản xuất lúa rộng lớn.
Các tỉnh ven biển còn chịu ảnh hưởng của sụ xâm nhập mặn bắt đầu vòa khoảng nửa cuối tháng 12 đầu tháng 1 năm sau và kết thúc vào cuối tháng 4 khi bắt đầu mùa mưa.
Việc xuống giống lúa của một số tỉnh nam quốc lộ 1 và một phần bắc quốc lộ 1 còn chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều biển Đông phải xuống giống vào chỉ 2 đợt trong tháng theo lịch triều cường (nước kém xuống giống để nước lớn đưa nước vào ruộng).
Trong từng vùng sản xuất nhỏ của từng địa phương, địa hình đất đai không đồng đều có nơi cao, nơi thấp, vùng triền trũng đan xen, các thành phần đất khác nhau, nhiễm phèn nhẹ, trung bình đến nhiễm nặng, đất xám, đất thịt, đất pha cát… Nên việc xuống giống cũng tuân theo địa hình này.
Tất cả những yếu tố này làm cho thời vụ xuống giống, chăm sóc và thu hoạch lúa rất nghiêm ngặt trong từng vùng, từng vụ lúa. Tuy vậy, dù đã cố gắng sắp xếp thời vụ cho phù hợp nhưng hàng năm vẫn còn có một phần diện tích bị thiệt hại do những ảnh hưởng bất lợi của thời tiết gây ra.
Thời vụ lúa mang tính đặc thù của từng địa phương, từng vùng sản xuất nhỏ nên hầu hết các tỉnh đều chia diện tích sản xuất lúa nói riêng và sản xuất nông nghiệp của tỉnh nói chung ra làm nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau từ đó bố trí cây trồng và cơ cấu mùa vụ cho thích hợp với từng tiểu vùng sinh thái trong địa phương.
Thời vụ lúa hiện nay, nhìn chung chịu ảnh hưởng rất lớn từ đặc điểm của những tiểu vùng sinh thái, từ sự chủ động hoặc nguồn nước ở các hệ thống kênh mương thủy lợi hoặc từ nguồn nước trời, từ sự đầu tư cho sản xuất của từng hộ gia đình và những tác động vào cơ sở hạ tầng của nhà nước như hệ thống giao thông, đê bao, thủy lợi…
Các hệ thống canh tác trên đất lúa hiện nay
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), có hai nhóm điển hình trên hai vùng sinh thái lớn:
Vùng phù sa nước ngọt
Cơ cấu ba vụ lúa chủ yếu tập trung ở những vùng đồng ruộng đã được kiến thiết tốt, có nguồn nước ngọt bổ sung và đủ phương tiện cung cấp nước như Mỹ Tho, Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè (Tiền Giang), một phần Long An dọc theo quốc lộ 1. Người ta làm 3 vụ lúa 1 năm: Hè Thu – Thu Đông – Đông Xuân bằng phương pháp sạ thẳng với các giống lúa ngắn ngày chất lượng cao.
Vụ Hè Thu từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch
Vụ Thu Đông từ tháng 8-9 đến tháng 11-12 dương lịch
Vụ Đông Xuân từ tháng 11-12 đến tháng 3-4 dương lịch
Nông dân ở vùng này đã có tập quán trồng lúa cải thiện rất lâu đời so với các vùng khác nên trình độ thâm canh cao. Gần đây, phương pháp “sạ chay” đã được phát triển mạnh mẽ trong vụ Hè Thu. Sau khi thu hoạch lúa Đông Xuân, đất được giữ khô trong khoảng 1 tuần lễ, người ta rãi rơm đều khắp ruộng để phơi rồi đốt, trước khi sạ hạt giống khô hoặc đã ngâm 24 giờ. Ngay sau khi sạ nước được đưa vào ngập ruộng, giữ nước lại trong ruộng 24 giờ cho đất ẩm rồi rút ra. Sau đó đất được giữ ẩm liên tục để hạt lúa nẩy mầm. Mọi công đoạn chăm sóc từ đó về sau giống như trường hợp lúa ướt.
Cơ cấu 2 lúa + 1 màu tỏ ra thích hợp và khá phổ biến trong những năm 2000 – 2006. Cơ cấu này phổ biến là lúa Hè Thu – lúa Đông Xuân – màu Xuân Hè.
Ở vùng đầu nguồn sông Cửu Long dọc theo hai bờ sông Tiền và sông Hậu, người dân thường trồng hai vụ lúa Hè Thu và Đông Xuân. Do nước lũ về rất sớm nên vụ Hè Thu vùng này thường được bắt đầu vào khoảng tháng 3 – 4 dương lịch với các giống lúa ngắn ngày (90 – 100 ngày) bằng phương pháp