Công nghệ thông tin (viết tắt là CNTT), là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để sử dụng, chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục phương Tây, CNTT đã được chính thức tích hợp vào chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng thông rộng tới tất cả các trường học, việc áp dụng CNTT trong công tác quản lý và dạy học đã trở thành hiện thực.
Thật khó có thể hình dung được thế giới của chúng ta sẽ như thế nào nếu như không có các ứng dụng của CNTT bởi CNTT đã thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực, tất cả các đối tượng với những hiệu quả mà CNTT đã mang lại, đặc biệt là trong giáo dục. Cụ thể là tất cả các đối tượng có thể giao tiếp trao đổi với nhau ở bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Việc thường xuyên sử dụng Công nghệ thông tin sẽ trang bị cho người sử dụng kỹ năng tiếp cận, xử lý thông tin, giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
Việc truy cập Internet cũng tạo cho CBQL, GV niềm say mê, hứng thú trong công việc, học tập và giảng dạy, thực hành khả năng làm việc và nghiên cứu độc lập. Giáo viên có thể chủ động, liên kết nhiều nguồn kiến thức, kỹ năng trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
Ngoài ra, CNTT giúp chúng ta có thể thực hiện nhiều công việc cùng lúc, có khả năng chuyển sự chú ý một cách nhanh chóng, thời gian đáp ứng nhanh, luôn thực hiện kết nối, thúc đẩy quá trình làm việc nhóm, nghe nhìn và tư duy. Hơn nữa, công nghệ liên kết các nguồn tri thức lại với nhau, kết nối công dân toàn cầu. Điều này làm cho không gian địa lý bị xoá nhoà và công nghệ trở thành một phần trong cuộc sống. Trích “Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT : Về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012”
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng nó trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển của đất nước.
23 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2595 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý - Dạy học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỨNG DỤNG CNTT
TRONG QUẢN LÝ - DẠY HỌC
-------------------------------
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I . Lí do chọn đề tài :
1.Cơ sở lí luận :
Công nghệ thông tin (viết tắt là CNTT), là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để sử dụng, chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục phương Tây, CNTT đã được chính thức tích hợp vào chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng thông rộng tới tất cả các trường học, việc áp dụng CNTT trong công tác quản lý và dạy học đã trở thành hiện thực.
Thật khó có thể hình dung được thế giới của chúng ta sẽ như thế nào nếu như không có các ứng dụng của CNTT bởi CNTT đã thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực, tất cả các đối tượng với những hiệu quả mà CNTT đã mang lại, đặc biệt là trong giáo dục. Cụ thể là tất cả các đối tượng có thể giao tiếp trao đổi với nhau ở bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Việc thường xuyên sử dụng Công nghệ thông tin sẽ trang bị cho người sử dụng kỹ năng tiếp cận, xử lý thông tin, giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.
Việc truy cập Internet cũng tạo cho CBQL, GV niềm say mê, hứng thú trong công việc, học tập và giảng dạy, thực hành khả năng làm việc và nghiên cứu độc lập. Giáo viên có thể chủ động, liên kết nhiều nguồn kiến thức, kỹ năng trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
Ngoài ra, CNTT giúp chúng ta có thể thực hiện nhiều công việc cùng lúc, có khả năng chuyển sự chú ý một cách nhanh chóng, thời gian đáp ứng nhanh, luôn thực hiện kết nối, thúc đẩy quá trình làm việc nhóm, nghe nhìn và tư duy. Hơn nữa, công nghệ liên kết các nguồn tri thức lại với nhau, kết nối công dân toàn cầu. Điều này làm cho không gian địa lý bị xoá nhoà và công nghệ trở thành một phần trong cuộc sống. Trích “Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT : Về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012”
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng nó trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển của đất nước.
2. Cơ sở thực tiễn:
Năm học 2008- 2009 Bộ GD&ĐT đã phát động năm học ứng dụng công nghệ thông tin. Qua gần hai năm thực hiện, do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, không ít cán bộ quản lý và giáo viên còn cảm thấy bỡ ngỡ, lúng túng khi đưa CNTT vào quản lý vào giảng dạy.
Rất may là Phòng GD&ĐT Tiên Du đã có tư duy đổi mới, đi trước một bước về vấn đề này. Từ hơn 5 năm trước đây, Phòng GD&ĐT đã tham mưu với UBND Huyện và các cấp chính quyền địa phương tiến hành đầu tư trước một bước về cơ sở vật chất như phòng học, hệ thống máy tính, máy chiếu, kết nối Internet cho tất cả các nhà trường. Đồng thời, chỉ đạo nâng cao chất lượng bộ môn tin học thông qua việc tổ chức các chuyên đề huyện hàng tháng, chỉ đạo các trường tổ chức các đợt tập huấn cho CBGV trong hè theo các chuyên đề đã xây dựng.
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục ở Tiên Du nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo dục, sự ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn và đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ.
Từ chỗ chỉ một vài trường có máy tính đến nay, 100% các trường đã có phòng máy tính để dạy tin học cho học sinh. Hơn 80% các trường có máy chiếu projecter. Trong các kì thi GVDG cấp Huyện có hơn 50% các tiết dậy bằng giáo án điện tử có chất lượng tốt. Đội ngũ giáo viên ngày càng tỏ ra thành thạo hơn trong việc thiết kế, chỉnh sửa và trình chiếu. Chất lượng giáo án điện tử ngày càng được nâng cao.
Mới qua mấy năm, đến nay, tất cả các trường đã có hòm thư liên kết với Bộ giáo dục, Sở giáo dục theo địa chỉ: https://mail.google.com/a/moet.edu.vn/ để trao đổi thông tin. Các trường cũng đã có địa chỉ Gmail để chuyển nhận thông tin báo cáo với Phòng giáo dục đảm bảo nhanh chóng, thuận tiện, kịp thời. Các thầy cô giáo đều có email để trao đổi thông tin…Tất cả đem đến một sự thay đổi căn bản, làm cơ sở cho việc ứng dụng CNTT vào công việc quản lý và dạy học.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và học đã được nhiều CBGV hưởng ứng tích cực. Đây được coi là một trong những biện pháp góp phần chất lượng quản lý và dạy học trong các nhà trường. Tuy nhiên, để CBGV làm chủ được CNTT trong quản lý và dạy học còn cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc…Trong các năm học tới phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa và đó cũng là yêu cầu cấp thiết của đổi mới trong ngành giáo dục, trong công tác quản lý và dạy học ở trường phổ thông.
Là một giáo viên được bổ nhiệm làm công tác quản lý, bản thân luôn say mê CNTT, tôi muốn qua đề tài này nêu lên một vài kinh nghiệm và những suy nghĩ của bản thân về vấn đề này. Mong được sự ủng hộ của các cấp quản lý và các đồng nghiệp.
II. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục, đưa ra một số kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và đẩy mạnh phong trào ứng dụng CNTT trong nhà trường.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Công tác quản lý, dạy học trong nhà trường trung học cơ sở liên quan đến việc ứng dụng CNTT.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. ỨNG DỤNG CNTT TRONG NHÀ TRƯỜNG:
1 . Vị trí chức năng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học.
Công nghệ thông tin, (tiếng Anh: Information Technology hay là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993 : Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
Công nghệ thông tin (viết tắt là CNTT) là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước ( Trích Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT)
2. Ứng dụng CNTT trong soạn giáo án.
a) Soạn giáo án bằng máy vi tính (đánh máy giáo án):
* Hiện nay các trường đều khuyến khích giáo viên soạn giáo án bằng máy vi tính, đặc biệt trong các đợt hội giảng cấp trường, cấp Huyện, cấp tỉnh.
Những ưu điểm:
+ Giáo án đánh máy có hình thức đẹp, trình bày khoa học, dễ sử dụng khi giảng dạy.
+ Rút ngắn thời gian soạn giáo án do có sử dụng những ưu điểm của phần mềm soạn giáo án ( Microsoft Word hay Open office), các phần mềm này sẽ tự động hóa một số thủ tục của giáo án theo một mẫu nhất định do người soạn đạt ra : ví dụ như tuần, ngày soạn, ngày dạy, kẻ khung, các mục của giáo án…,
+ Soạn giáo án bằng máy vi tính làm cho chúng ta có thể chỉnh sửa rất dễ dàng. Ngoài ra, phầm mềm còn cho phép chúng ta sưu tầm, lựa chọn sao chép những ý tưởng, nội dung hay trong các giáo án cũ của mình, của đồng nghiệp.
+ Có thể lưu trữ đến các năm học sau để bản thân, đồng nghiệp sử dụng tham khảo.
+ Có thể sử dụng để đưa các nội dung cần thiết vào bài giảng điện tử một cách nhanh chóng mà không cần gõ lại.
+Qua việc soạn giáo án, giáo viên được tìm hiểu, học hỏi thêm về công nghệ thông tin từ đó nâng cao trình độ tin học của giáo viên góp phần nâng cao phong trào ứng dụng CNTT trong dạy học.
+Giáo viên có thể dễ dàng đưa vào giáo án những sơ đồ, biểu đồ, tranh, ảnh minh họa…. điều mà giáo án viết tay khó có thể làm được.
Thực trạng:
Qua việc chỉ đạo công tác chuyên môn cùng với một số năm được đi thanh tra chuyên môn các trường và chấm thi GVDG Huyện Tiên Du, bản thân thấy có một số bất cập của giáo án in như sau:
- Nhiều giáo viên chưa có đủ điều kiện có được bộ máy tính, máy in để soạn giáo án.
- Nhiều giáo viên còn lúng túng khi sử dụng máy vi tính và các phần mềm văn phòng để soạn giáo án, chưa biết khai thác mạng internet để sưu tầm giáo án, tư liệu phục vụ cho giáo án.
- Một số giáo viên lợi dụng mạng internet để khai thác một cách tiêu cực giáo án của đồng nghiệp như: sao chép y nguyên, không có sự nghiên cứu, không có chỉnh sửa cho phù hợp với điều kiện dạy học của mình.
- Giáo án sao chép từ nhiều nguồn nên bộ font chữ rất lộn xộn, không thực hiện theo đúng thể thức trình bày văn bản thông thường. Giáo viên không đủ trình độ tin học để sửa lỗi theo ý mình.
- Việc đóng bìa, kẹp, đánh số trang còn rất tùy tiện.
- Giáo án in không đủ cơ sở pháp lý: Không ghi họ tên, trường, lớp hoặc ghi bằng bút mực(ghi sau)
- Thậm chí có giáo viên còn nhờ hoặc thuê người download giáo án cốt để có giáo án đối phó với kiểm tra, hầu như không xem lại giáo án.
àNhững việc làm đó không những không mang lại hiệu quả cho việc dạy học bằng giáo án đánh máy mà còn làm cho người dạy lười không nghiên cứu bài dạy và kết quả là làm cho tiết dạy đạt hiệu quả thấp.
Do vậy, rất cần có sự chỉ đạo cụ thể của cán bộ quản lý và các cơ quan chuyên môn để điều chỉnh.
b) Xây dựng bài giảng với sự hỗ trợ của máy tính.
Khái niệm giáo án điện tử và bài giảng điện tử là khái niệm mà nhiều nhà giáo, nhà nghiên cứu vẫn còn tiếp tục tranh luận, tôi chỉ muốn nói nên những hiểu biết của mình về việc ứng dụng CNTT trong xây dựng bài giảng.
Bài giảng có ứng dụng CNTT nói chung được xây dựng bằng máy tính với các phần mềm hỗ chợ chuyên dụng như: phần mềm trình chiếu Microsoft PowerPoint, phần mềm Movie Maker, Violet, Geo Sketchpad, Carbi, Crocodile Clips, Crocodile Physics, Macromedia Flash,… và sự hỗ trợ của máy chiếu, camera, máy ảnh cùng các thiết bị khác.
Những năm gần đây, việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến đổi mới về phương tiện, các thiết bị dạy học ngày càng phong phú về số lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao. Việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm vào dạy học hiện nay đang được nhiều trường, nhiều giáo viên thực hiện để thiết kế bài giảng nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Đây là một trong những hướng đổi mới PPDH đạt hiệu quả. Do đó, Công nghệ thông tin (CNTT) có vai trò rất quan trọng trong dạy học, nó mang lại hiệu quả cao, tiết học sinh động, học sinh hứng thú học tập và tích cực tham gia xây dựng bài. Tuy nhiên, khi ứng dụng CNTT vào thiết kế bài giảng, giáo viên cần đảm bảo các nguyên tắc chung, các quy trình thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT sao cho có hiệu quả.
Dạy học với CNTT đòi hỏi người giáo viên phải biết định hướng, điều khiển quá trình học tập, giúp học sinh tự mình lĩnh hội tối đa kiến thức. Vì vậy giáo viên cần phải tích cực bồi dưỡng kiến thức tin học, sẵn sàng đổi mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT vào dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn.
* Các nguyên tắc chung của một bài giảng có ứng dụng CNTT.- Đảm bảo tính khoa học sư phạm và khoa học tin học.- Đảm bảo tính hiệu quả, tính thực tế, tính giáo dục.- Đảm bảo tính mở và tính phổ dụng.- Đảm bảo tính cập nhật nội dung kiến thức bài giảng.- Cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản của bài học, xác định trọng tâm bài và căn cứ trình độ nhận thức của học sinh cùng các điều kiện hiện có để thiết kế bài giảng- Đa dạng hóa kiến thức.
- Ứng dụng CNTT theo quan điểm dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Ba khâu quan trọng nhất: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học sinh ghi chép.
Mỗi lớp học thường có trung bình từ 35-45 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau:
- Các trang trình chiếu phải đơn giản và rõ ràng.
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang slide.
Về màu sắc của trang trình chiếu:
Màu sắc không được lòe loẹt, không nên dùng các hình đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản, chỉ nên sử dụng chữ đậm màu (đen, xanh đậm, đỏ đậm…)trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
Về font chữ:
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho học sinh ghi vào vở…)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn, không chân (Arial, Tahoma, VNI-Helve…) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên màn hình TV (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho khoảng 50 người xem thì cỡ chữ thích hợp nên từ khoảng 20 đến 30 trở lên mới đọc rõ được. Tuy nhiên, với đối tượng học sinh THCS, không nên dùng cỡ chữ quá to, trông trang chiếu thô và không mỹ thuật.
Về trình bày nội dung trên trang slide:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền trang từ trên xuống, từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Khi khai thác đa phương tiện (hình ảnh, âm thanh, hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin như ta mong muốn.
Trình chiếu giáo án
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.
Hướng dẫn học sinh ghi chép:
Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy. (vd: Tên bài dạy, các đề mục) để học sinh dễ dàng củng cố. Cần quy định màu chữ cho học sinh ghi vào vở. (vd: màu xanh mực…) và cần quy định để học sinh có thể tự ghi khi nhìn màn hình. Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của Bộ GD&ĐT và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài, giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau: Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong các slide có ký hiệu riêng. Ví dụ ký hiệu (@, đặt ở góc trên bên trái, hoặc hình ảnh ngón tay chỉ, hình ảnh chiếc bút viết). Học sinh phải chép đầy đủ nội dung trong các slide này. Tập hợp nội dung các slide có ký hiệu riêng tạo nên kiến thức yêu cầu tối thiểu của tiết học. Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh tự chọn học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình. Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng đến tiến độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh dấu trong sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích hợp).
Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên trong quá trình giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến thức trọng tâm, nhưng giáo viên không có quyền bắt học sịnh công nhận tất cả các đơn vị kiến thức. Chính bản thân học sinh, trong khi tham gia tích cực vào tiết học, sau khi tìm hiểu lại sách giáo khoa và tìm tòi ở các phương tiện multimedia, sẽ chọn lọc đúc kết những kiến thức của tiết học và ghi chép, lưu trữ cho riêng mình.
Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu, nội dung, tiến trình bài giảng.
- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính tích cực của học sinh.
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định, có tính hệ thống và khoa học.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
3. Khai thác mạng Internet phục vụ dạy học:
Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục và chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và phù hợp để bổ sung những nội dung được quy định trong chương trình và sách giáo khoa. Internet–nguồn tư liệu vô tận cho các bài giảng sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng được yêu cầu đó .
a) Lợi ích từ internet đối với giáo viên:
- Giáo viên có thể tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ tin học khi tham gia vào các diễn đàn, các câu lạc bộ, hay tìm hiểu các trang Web từ mạng internet như:
giaovien.net, vnschool.net, violet.vn, dayhoc.vn, hocmai.vn, dayhoctructuyen.org, edu.net.vn, diendan3t.net, toanhoctuoitre.nxbgd.com.vn, toantuoitho.nxbgd.vn, …
- Giáo viên có thể tải các giáo án, bài giảng, tư liệu, đề thi và tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy tại các trang web như: vioet.vn, giaovien.net, edu.net.vn, vnschool.net, thuvienkhoahoc.com, ebook.moet.gov.vn.
- Qua mạng internet giáo viên có thể tham gia vào các diễn đàn của học sinh, các trường bạn, các blog … để tìm hiểu về tâm lý, sở thích của học sinh từ đó có những phương pháp giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao.
- Giáo viên có thể lập blog hay trang web hay các câu lạc bộ để trao đổi cùng đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ sư phạm của mình.
b) Hạn chế:
- Nhiều giáo viên còn chưa thấy được các lợi ích từ việc khai thác internet, có nhiều người nghĩ rằng internet chỉ là để đọc báo, để giải trí, cũng có người sợ mình không biết cách khai thác mạng.
- Nhiều GV chưa có điều kiện để nối mạng internet, cũng có nhiều người bận dạy thêm hay bận công việc gia đình không có thời gian nghiên cứu khai thác mạng internet phục vụ công tác dạy học.
- Có những giáo viên còn non nớt về kiến thức, kĩ năng tin học, rất lúng túng khi truy cập, khai thác mạng internet (tìm trang, download, lưu trữ, đưa vào bài giảng…)
- Có những giáo viên ngại học, ngại tìm hiểu nghiên cứu để nâng cao trình độ, bằng lòng với những kiến thức mình đã có.
4. Ứng d