Công tác quản lý Nhà nước về đất đai là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong nhiều năm qua công tác này thu được nhiều thành quả tạo điều kiện cho người dân được quyền làm chủ đất đai, tạo động lực phát triển sản xuất, góp phần ổn định kinh tế xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tranh chấp, khiếu kiện vẫn xảy ra thường xuyên và thường tập trung đối với các chủ sử dụng đất không có đầy đủ giấy tờ pháp lý, đất có nguồn gốc không rõ ràng,.Điều này gây nhiều khó khăn cho công tác giải quyết khiếu kiện nói riêng và công tác quản lý đất đai nói chung.
Để quản lý chặt chẽ quỹ đất quốc gia, Nhà nước cần tổ chức kê khai đăng ký và cấp GCNQSDĐ là một chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Việc cấp GCNQSDĐ giúp cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư, khai thác tốt tiềm năng đất và chấp hành đúng luật đất đai. Đồng thời, giúp Nhà nước quản chặt chẽ từng thửa đất, từng chủ sử dụng đất từ đó lập quy hoạch, kế hoạch hợplý, hiệu quả, tiết kiệm hơn. Công nghệ thông tin đã và đang không ngừng phát triển mạnh mẽ, thâm nhập vào hầu hết các ngành khoa học, các hoạt động thực tiễn và quản lý trong mọi lĩnh vực. Việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống thông tin địa lý (GIS) đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong nghiên cứu khoa học, đào tạo và quản lý, bao gồm quản lý Nhà nước, quản lý kinh doanh và hầu hết các lĩnh vực quản lý các hệ thống tài nguyên thiên nhiên, trong đó có quản lý đất đai, môi trường đang là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu.
65 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2926 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong đánh giá tình hình đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của huyện Hoài Đức TP Hà Nội giai đoạn 1993 - 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác quản lý Nhà nước về đất đai là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong nhiều năm qua công tác này thu được nhiều thành quả tạo điều kiện cho người dân được quyền làm chủ đất đai, tạo động lực phát triển sản xuất, góp phần ổn định kinh tế xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, tranh chấp, khiếu kiện vẫn xảy ra thường xuyên và thường tập trung đối với các chủ sử dụng đất không có đầy đủ giấy tờ pháp lý, đất có nguồn gốc không rõ ràng,..Điều này gây nhiều khó khăn cho công tác giải quyết khiếu kiện nói riêng và công tác quản lý đất đai nói chung.
Để quản lý chặt chẽ quỹ đất quốc gia, Nhà nước cần tổ chức kê khai đăng ký và cấp GCNQSDĐ là một chứng thư pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Việc cấp GCNQSDĐ giúp cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư, khai thác tốt tiềm năng đất và chấp hành đúng luật đất đai. Đồng thời, giúp Nhà nước quản chặt chẽ từng thửa đất, từng chủ sử dụng đất từ đó lập quy hoạch, kế hoạch hợplý, hiệu quả, tiết kiệm hơn. Công nghệ thông tin đã và đang không ngừng phát triển mạnh mẽ, thâm nhập vào hầu hết các ngành khoa học, các hoạt động thực tiễn và quản lý trong mọi lĩnh vực. Việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống thông tin địa lý (GIS) đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong nghiên cứu khoa học, đào tạo và quản lý, bao gồm quản lý Nhà nước, quản lý kinh doanh và hầu hết các lĩnh vực quản lý các hệ thống tài nguyên thiên nhiên, trong đó có quản lý đất đai, môi trường đang là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu.
Theo luận điểm 2003 thì công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) là một trong 13 nội dung của công tác quản lý Nhà nước về đất đai, là hồ sơ để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ quỹ đất trong phạm vi cả nước, đảm bảo đất được sử dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhất, là cơ sở để xác định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, thúc đẩy sự phát triển của thị trường bất động sản, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy việc đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đòi có độ chính xác cao, thời gian thực hiện nhanh chóng và lưu trữ dễ dàng.
Hiện nay ở nước ta có sử dụng một số phần mềm để quàn lý đất đai và cấp GCNQSDĐ như Microstation, Famis, Vilis… Trong đó Famis dùng trong môi trường Microstation, trong Famis có lưu trữ một bộ ký hiệu bản đồ quy chuẩn của Bộ TNMT đối với các loại bản đồ như bản đồ địa hình, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và đặc biệt là bản đồ địa chính. Đồng thời Famis có thể xuất ra những bảng biểu để phục vụ cho công tác cấp GCNQSD đất như: hồ sơ kĩ thuật thửa đất, biên bản ranh giời giáp ranh các thửa đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…Tuy nhiên Famis chỉ có khả năng trích lục các hồ sơ mang tính riêng lẻ đối với từng thửa đất còn để xuất số liệu một cách tổng hợp như sổ mục kê, sổ địa chính cho một ĐVHC xã thì hiện nay nguời ta sử dụng phần mềm Vilis. Phần mềm này chỉ có thể hoạt động một cách hiệu quả khi nó được link với bản đồ địa chính trong Microstaion có phần mềm Famis để phục vụ cho việc quản lý đất đai.
Nhưng để ứng dụng GIS vào quá trình theo dõi, giám sát tình hình ĐKĐĐ và cấp GCNQSDĐ thì hiện nay chưa thấy có công trình nghiên cứu nào được thực hiện về vấn đề này.
Xuất phát từ thực tiễn trên cũng như tầm quan trọng của công tác đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đề tài: “Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý( GIS) trong đánh giá tình hình đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của huyện Hoài Đức TP Hà Nội giai đoạn 1993-2011” đã tiến hành nghiên cứu.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khái niệm về đăng ký đất đai và cấp GCNQSDĐ
1.1.1 Khái niệm về đăng ký đất đai
- Đăng ký đất đai là một thủ tục hành chính thiết lập hồ sơ địa chính đầy đủ và cấp GCNQSDĐ hợp pháp nhằm xác lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa nhà nước với người sử dụng đất, làm cơ sở đề Nhà nước quản lý chặt chẽ đất đai theo pháp luật và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất. Đăng ký đất đai bao gồm đăng ký ban đầu và đăng ký biến động.
- Đăng ký ban đầu được tổ chức lần đầu tiên trên phạm vi cả nước để thiết lập hồ sơ địa chính ban đầu cho toàn bộ đất đai và cấp GCNQSDĐ cho tất cả các chủ sử dụng đất có đủ điều kiện
- Đăng ký biến động đất đai được thực hiện ở những địa phương đã hoàn thành đăng ký ban đầu, do biến động (diện tích, hình thể, chủ sử dụng, mục đích sử dụng…) nên phải đăng ký lại hồ sơ địa chính đã thiết lập.
1.1.2. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý xác nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất để họ yên tâm đầu tư, cải tạo nâng cao hiệu quả sử dụng đất và thực hiện quyền, nghĩa vụ sử dụng đất theo pháp luật.
Luật Đất đai 2003 quy định GCNQSDĐ được cấp cho tất cả các chủ sử dụng đất hợp pháp, theo mỗi mẫu thống nhất trong cả nước đối với mọi loại đất. GCNQSDĐ do Bộ TNMT phát hành và cấp cho từng thửa đất, hoặc cấp cho hộ trong đó ghi nhiều thửa đất của hộ gia đình đó.
Điểm qua tình hình đăng ký đất đai ở Việt Nam qua các thời kỳ
Thời kỳ phong kiến cho đến trước năm 1945
Không có nhiều tư liệu nói về đăng ký đất đai trong thời kì phong kiến, nhưng theo sử sách để lại thì công việc này đã được tiến hành ngay từ thời Gia Long. Tồn tại trong khoảng thời gian khá dài, thời Gia Long được lấy mốc từ năm 1805 khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua cho đến năm 1836. Trong 31 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã tiến hành lập Sổ Địa bạ cho 18.000 xã từ Mục Nam quan cho đến mũi Cà Mau bao gồm 10.044 tập. Nội dung của sổ chỉ rõ đất của ai, diện tích tứ cận, đẳng hạng dùng để tính thuế. Được lập cho từng xã gồm 3 bản, Sổ Địa bạ theo quy định hàng năm tiến hành tiểu tu, 5 năm một lần tiến hành đại tu. Không có nhiều các thông số như bây giờ nhưng sổ này có vai trò lớn trong việc phân biệt đất công, đất tư, điền thổ. Đây được coi là mốc khởi đầu đánh dấu bước hình thành lịch sử đăng ký đất đai.
Mốc lịch sử thứ hai, được tính vào đời vua thứ hai của triều Nguyễn, thời kỳ Minh Mạng. Sổ Địa bạ thời này được lập đến từng làng xã. Điểm tiến bộ trong việc lập Sổ Địa bạ ở thời kì này là được lập trên cơ sở đo vẽ ngoài thực địa hay còn gọi là đạc điền và có sự chứng kiến của các chức sắc trong làng và của điền chủ sử dụng đất. Sổ Địa bạ có độ xác thực cao hơn thời Gia Long. Hệ thống này vẫn được lập thành 3 bản, và hình thức tiểu tu, đại tu vẫn giữ nguyên như cũ.
Thời kỳ Pháp thuộc là mốc lịch sử thứ ba trong giai đoạn này. Khi tiến hành xâm lược nước ta, Pháp áp dụng chế độ quản lý đất đai của mình với đặc trưng nổi bật là công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai một cách tuyệt đối, chứ không như luật lệ nhà Nguyễn. Với sự tiến bộ của một nước phương Tây, Pháp tiến hành lập bản đồ địa chính theo tọa độ, Sổ Địa bạ được lập một cách có hệ thống và để phục vụ chủ yếu cho việc thu thuế nông nghiệp. Chính sách Pháp đặt ra cho nước ta khi tiến hành bóc lột là “Chia để trị”. Chính sách này được thể hiện bằng việc Pháp chia nước ta thành ba kỳ. Ở mỗi kỳ Pháp lại lập ra ba chế độ quản lý khác nhau.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Do đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ nên việc phân đoạn lịch sử của đăng ký đất đai chia theo không gian hai miền Nam, Bắc.
a, Đăng ký đất đai ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Mỹ Ngụy (1954-1975)
Nam Kỳ thời gian này chịu sự cai trị của Mỹ và tay sai, việc quản lý đất đai thực hiện theo chế độ quân chủ điền địa như thời gian trước. Chính quyền Mỹ Ngụy đứng đầu là Ngô Đình Diệm, sau này là Nguyễn Văn Thiệu tiếp nhận hệ thống hồ sơ của thực dân Pháp để lại với bộ hồ sơ gồm bản đồ giải thửa; sổ điền thổ với các thông tin về diện tích, nơi đo đạc, giáp ranh, biến động tăng giảm diện tích; Sổ mục lục (tên chủ sử dụng, số hiệu thửa đất).
Toàn bộ hồ sơ được lưu tại hai cấp là: Ty điền địa, xã sở tại. Và mỗi chủ sở hữu của lô đất được cấp bằng khoán gọi là bằng khoán điền thổ. Nó giống chức năng của GCNQSDĐ hiện nay, dùng để khẳng định quyền của chủ sở hữu của lô đất.
b, Công tác đăng ký đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ tháng Tám năm 1945 đến nay
Khi cách mạng tháng Tám thành công, những tài liệu do Pháp để lại được sử dụng trong khoảng thời gian từ 1945 – 1975 ở miền Bắc.
Sau cải cách ruộng đất, chính quyền cách mạng đã tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nhân dân. Ruộng đất tập trung vào hợp tác xã quản lý, Chủ nhiệm hợp tác xã có quyền giao đất, cho thuê đất. Trong thời kỳ này hệ thống bản đồ cũ còn lại không nhiều và chủ yếu là bản đồ giải thửa, đo đạc thủ công phục vụ chủ yếu cho nông nghiệp.
Hiến pháp 1980 ra đời đặt ra quy định một hình thức sở hữu đất đai duy nhất đó là sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Qua đây, có thể thấy đất đai đã trở thành một trong những vấn đề được Nhà nước quan tâm. Một vấn đề cần được chú ý hàng đầu trong thời gian này là phải tiến hành đo đạc lại bản đồ.
Quyết định 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ ban hành về công tác quản lý đất đai trong cả nước.
Chỉ thị 299/CT – TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định 201 của Chính phủ về công tác đo đạc, phân hạng, đăng ký ruộng đất.
Quyết định 56/QĐ ngày 5/11/1981 do Tổng cục Quản lý ruộng đất đưa ra quy định về hệ thống hồ sơ tài liệu phục vụ cho đăng ký thống kê ruộng đất. Yêu cầu hồ sơ phải có: Biên bản xác định ranh giới hành chính; Biên bản kiểm tra chi tiết kết quả đo đạc ngoài đồng và tại văn phòng; Phiếu thửa, Đơn đăng ký quyền sử dụng đất; Bản kê khai ruộng đất tập thể; Bản tổng hợp các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp; Sổ đăng ký ruộng đất cho tập thể và cá nhân; Sổ mục kê, biểu tổng hợp diện tích; Mẫu GCNQSDĐ …
Luật Đất đai 1988 ra đời, được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 08/01/1988 với rất nhiều các văn bản kèm theo để củng cố công tác quản lý đất đai đang còn nhiều vấn đề tồn tại sau một khoảng thời gian dài sau chiến tranh.
Đăng ký đất đai vẫn được triển khai theo Chỉ thị 299/CT. Ngày 24/7/1989, Tổng cục Quản lý ruộng đất tiếp tục ra Quyết định 201/QĐ về việc đăng ký đât đai cấp GCNQSDĐ. Sau đó là Thông tư 302 (28/10/1989) về việc đăng ký thống kê, hướng dẫn thực hiện Quyết định 201.
Mẫu HSĐC thống nhất trong cả nước được quy định trong Quyết định 499/QĐ-TCĐC của Tổng cục Địa chính ban hành ngày 27/07/1995.
Ngày 16/03/1998, Tổng cục Địa chính đã ban hành Thông tư 346/1998/TT-TCĐC về việc hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ.
Ngày 30/11/2001, Tổng cục Địa chính ban hành Thông tư 1999/2001/TT-TCĐC về việc hướng dẫn các thủ tục đăng ký cấp GCN và HSĐC thống nhất trong cả nước.
Bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2004, Luật Đất đai 2003 là văn bản luật mới nhất đang có giá trị hiện hành, với nhiều quy định mới tiến bộ hơn so với các bộ luật cũ. Trong đó đưa ra 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai. Đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ, lập và quản lý HSĐC là một trong 13 nội dung đó.
Ngày 01/11/2004, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT quy định về GCNQSDĐ.
Thông tư 28/2004/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành để hướng dẫn thực hiện thống kê kiểm kê đất đai, xây dựng bản đồ hiện trạng.
Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành vào ngày 01/11/2004 về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý HSĐC.
Tình hình cấp GCNQSDĐ trên cả nước:
Báo cáo tổng hợp từ các địa phương đưa ra tại cuộc họp của Chính phủ ngày 20-2 cho thấy, tính đến đầu năm 2012 cả nước đã cấp được 35,397 triệu giấy chứng nhận các loại với tổng diện tích 20,3 triệu ha. Trong đó, cấp giấy chứng nhận theo quy định mới (Nghị định số 88/2009) đạt hơn 2,5 triệu giấy, với tổng diện tích hơn 1 triệu ha, gồm 295.000 giấy chứng nhận có tài sản gắn liền với đất.
Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2011, công tác cấp giấy chứng nhận đối với đất ở đô thị của cả nước chỉ mới đạt 63,5%, mới có 15 tỉnh hoàn thành trên 90%, còn 13 tỉnh đạt dưới 50%. Đặc biệt khu vực mới phát triển đô thị, dự án phát triển nhà ở có tỷ lệ cấp đạt 19,3% tổng số căn hộ được duyệt. Hà Nội chỉ đạt 9,3%, TP.HCM đạt 30%.
Trong khi đó, việc cấp giấy chứng nhận đối với đất ở nông thôn, đất nông nghiệp, lâm nghiệp đều đạt cao, từ 84 - 85%, trong đó nhiều tỉnh đạt trên 90%.
Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhìn chung, số lượng tồn đọng chưa cấp giấy chứng nhận các loại đất tập trung ở đất chuyên dụng, đất ở đô thị, giấy chứng nhận cho người mua nhà ở tại các dự án phát triển nhà ở, chung cư mini và các khu vực ven đô thị lớn. Phần lớn các trường hợp này không có có giấy tờ hợp lệ, đang vướng mắc, vi phạm pháp luật đất đai, xây dựng, các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất ở các địa phương còn thiếu cán bộ chuyên môn so với yêu cầu nhiệm vụ, kinh phí đầu tư đo đạc bản đồ địa chính, đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận, xây dựng hồ sơ địa chính còn hạn chế.
Hiện này, các địa phương trong đó có huyện Hoài Đức đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc lập hồ sơ địa chính dưới dạng số và phần nào đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, việc lập hồ sơ địa chính ở nhiều địa phương còn chưa đầy đủ, mới chỉ tập trung ở một số xã mà chưa triển khai trên diện rộng. Bên cạnh đó, phần mềm ứng dụng trong công tác lập hồ sơ địa chính ở nhiều địa phương chưa thống nhất, chỉnh lý biến động chưa thực hiện đaayf đủ, thường xuyên kịp thời và thiếu đồng bộ.
Cơ sở lý luận và căn cứ pháp lý của công tác đăng ký, cấp GCN QSDĐ.
Cơ sở lý luận của công tác đăng ký, cấp GCN QSDĐ.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất không gì thay thế được trong sản xuất nông- lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng. Song thực tế đất đai là tài nguyên có hạn về diện tích, có vị trí cố định trong không gian. Vì vậy việc quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên đất là điều cần thiết với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Trong những năm gần đây do thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, cùng với tốc độ đô thị hóa ngày càng cao cũng như sự gia tăng dân số đã dẫn đến nhu cầu về đất ở và đất sản xuất gia tăng, gây sức ép lớn đến quỹ đất nông nghiệp nói riêng và quỹ đất đai nói chung. Do đó, đòi hỏi Nhà nước phải có những quy định phù hợp đối với đất đai nhằm sử dụng một cách hợplý, tiết kiệm và có hiệu quả.
Đăng ký, cấp GCN QSDĐ là một công cụ của Nhà nước để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng cũng như lợi ích công dân.
Đối với Nhà nước và xã hội việc đăng ký, cấp GCN QSDĐ mang lại những lợi ích đáng kể như sau:
-Phục vụ thu thuế sử dụng đất, thuế tài sản thuế sản xuất nông nghiệp, thuế chuyển nhượng…
-Cung cấp các tư liệu phục vụ các chương trình cải cách đất đai trong đó bản thân việc triển khai một hệ thống đăng ký đất đai cũng là một hệ thống pháp luật;
-Giám sát giao dịch đất đai;
-Phục vụ quy hoạch
-Phục vụ quản lý trật tự trị an…
Đối với công dân việ đăng ký, cấp GCN QSDĐ đem lại những lợi ích như:
-Tăng cường sự an toàn về chử quyền đối với đất đai.
-Khuyến khích người sử dụng đất đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng đất:
-Mở rộng khả năng vay vốn;
-Hỗ trợ các giao dịch về đất đai và giao dịch về quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản;
-Giảm tranh chấp đất đai…
Từ những lợi ích trên cho thấy, công tác đăng ký, cấp GCN QSDĐ là việc không thể thiếu trong quản lý Nhà nước về đất đai.
Căn cứ pháp lý của công tác đăng ký, cấp GCN QSDĐ.
Ở Việt Nam, công tác đạc điền và quản lý điền địa có từ thế kỷ thứ VI đến nay. Dưới thời phong kiến, nổi bật là sự ra đời của Sổ Địa bạ thời Gia Long, Sổ Địa bộ thời Minh Mạng. Dưới thời Pháp thuộc đã tồn tại nhiều chế độ điền địa khác nhau như: chế độ điền thổ tại Nam Kỳ, chế độ quản thủ địa chính tại Trung Kỳ, chế độ điền thổ và quản thủ địa chính tại Bắc Kỳ.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập và ban hành các văn bản Pháp luật thống nhất về quản lý đất đai, đồng thời bãi bỏ các vản bản về ruộnh đất trước đây. Tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V đã nhất trí thông qua Cương lĩnh cải cách ruộng đất. Ngày 14/12/1953 tại kỳ họp thứ 3 Quốc Hội Khoá I đã thông qua Luật Cải cách ruộng đất nhằm xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện triệt để khẩu hiệu: “người cày có ruộng”.
Để bảo vệ thành quả Cách mạng và từng bước đi lên CNXH, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959 ra đời quy định 3 h́nh thức sở hữu về đất đai: sở hữu Nhà Nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Năm 1980, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời đã khẳng định: “Nhà Nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch chung nhằm đảm bảo đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm ...”. Công tác ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ được Đảng và Nhà Nước ta quan tâm chỉ đạo thông qua hệ thống các văn bản Pháp luật sau:
Ngày 01/07/1980 Chính phủ ra Quyết định số 201/QĐ-CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất theo quy hoạch và kế hoạch chung trong cả nước.
Ngày 10/11/1980 Thủ tướng Chính Phủ ban hành Chỉ thị số 299-TTg với nội dung đo đạc và phân hạng đất, đăng ký thống kê đất đai trong cả nước.
Ngày 08/01/1988, trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, Luật Đất đai đầu tiên ra đời. Tại Điều 9 của Luật này nêu rõ: “ĐKĐĐ, lập và quản lý HSĐC, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê, cấp GCNQSDĐ, đây là một trong bảy nội dung quản lý Nhà Nước về đất đai”.
Kể từ khi Luật Đất đai năm 1988 có hiệu lực, nhìn chung công tác quản lý đất đai dần được đi vào nền nếp, ổn định. Trong giai đoạn này, công tác cấp GCNQSDĐ đã được quan tâm thực hiện ở nhiều địa phương.
Năm 1992, do yêu cầu đổi mới nền kinh tế, công tác quản lý theo đó cũng được đổi mới. Hiến pháp năm 1992 ra đời khẳng định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, tai nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển thềm lục địa và vùng trời,... đều thuộc sở hữu toàn dân”. Đây là cơ sở vững chắc cho sự ra đời của Luật Đất đai 1993 được thông qua ngày 14/07/1993. Luật Đất đai 1993 đã khẳng định và bổ sung thêm các nội dung quản lý Nhà Nước về quản lý đất đai, đánh một dấu mốc quan trọng về sự đổi mới chính sách đất đai của Nhà Nước.
- Nghị định số 64/CP ngày 27/09/1993 của Chính Phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp
Nghị định 60/CP ngày 05/07/1994 của Chính Phủ về cấp Giấy chứng nhận sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị
Thông tư số 346/TT-TCĐC ngày 16/03/1998 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn thủ tục ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ, lập HSĐC
Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật Đất đai năm 1993 đã xuất hiện nhiều vấn đề bất cập, vì vậy, Luật Đất đai năm 2003 được Quốc Hội khoá XI thông qua ngày 26/11/2003, theo đó quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà Nước đại diện chủ sở hữu” và nêu lên 13 nội dung quản lý Nhà Nước về đất đai, trong đó nội dung đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC là một nội dung quan trọng được tái khẳng định.
Đến nay, cùng với việc ban hành Luật đất đai năm 2003 cũng đã có nhiều văn bản Pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền từ Trung ương đến địa phương ban hành để làm cơ sở cho việc thực hiện ĐKĐĐ, cấp GCNQSDĐ và lập HSĐC. Cụ thể là:
Luật Đất Đai năm 2003 ngày 26/11/20003 có hiệu lực thi hành vào ngày 01/07/2004, trong đó quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc về GCNQSDĐ, thực hiện nghĩa vụ tài chính khi cấp GCNQSDĐ; lập HSĐC và trình tự thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai để cấp GCNQSDĐ hoặc chỉnh lý biến động về sử dụng đất trên GCNQSDĐ.
Nghị định số 47/2003/NĐ-CP ngày 12/05/2003 sửa đổi bổ sung một số Điều của Nghị định 176/1999/NĐ-CP.
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003.
Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất, trong đó có quy định cụ thể hoá Luật Đất đai về việc thu tiền sử dụng đất khi cấp GCNQSDĐ.
Nghị định số 127/2005/NĐ-CP ngày 10/10/2005 của Chính phủ về việc hướng dẫn thực hiện Nghị Quyết số 23/2003/QH11 ngày 26/11/20