Như ta đã biết, nhận thức-quyết định và hành động là bộ ba biện chứng của 
quản lý khoa học, có hiệu quả toàn bộ cá hoạt động kinh tế trong đó nhận thức giữ 
vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định mục tiêu và sau đó là các nhiệm vụ 
cần đạt tới trong tương lai. Như vậy nếu nhận thức đúng, người ta sẽ có các quyết 
định đúng v à tổ chức thực hiện kịp thời các quyết định đó đương nhiên sẽ thu 
được những kết quả như mong muốn. Ngượclại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn tới các 
quyết định sai và nếu thực hiện các quyết định sai đó thì hậu qủa sẽ không thể 
lường trước được.
Vì vậy phân tích tình hình tài chính là đánh giá đúng đắn nhất những gì đã 
làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên cơsở đó kiến nghị các biện pháp để tận 
dụng triết để những điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu.
Tình hình tài chính doanh nghiệp là sự quan tâm không chỉ của chủ doanh 
nghiệp mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng như các nhà đầu tư, người 
cho vay,Nhà nước và người lao động. Qua đó họ sẽ thấy được thực trạng thực tế 
của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh, và tiến hành phân tích hoạt động 
kinh doanh. Thông qua phân tích họ có thể rút ra được những quyết định đúng đắn 
liên quan đến doanh nghiệp và tạo điều kiện nâng cao khả năng tài chính của 
doanh nghiệp. Do đó việc phân tích tài chính trong một doanh nghiệp là hết sức 
cần thiết. Qua thời gian thực tập tại Công ty may Đức Giang em quyết định chọn 
đề tài: "ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân 
tích tài chính của Công ty may Đức Giang"
Thực hiện đề tài này với mục đích dựa vào tình hình thực tế hoạt động sản 
xuất kinh doanh của Công ty để ứng dụng phương pháp phân tích, từ đó đánh giá 
hiệu quả đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Chuyên đề gồm 3 chương :
Chương I: Các phương pháp phân tích tài chính trong doanh nghiệp 
Phần II:Thực trạng về phương pháp phân tích tài chính của Công ty may 
Đức Giang.
Phần III:Một số giải pháp ứng dụng phương pháp tỷ số và so sánh vào phân 
tích tài chính c ủa Công ty may Đức Giang
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 99 trang
99 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân tích tài chính của Công ty may Đức Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 
Đề tài: Ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và 
phương pháp so sánh vào phân tích tài chính của Công 
ty may Đức Giang 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
Lời mở đầu 
 
Như ta đã biết, nhận thức- quyết định và hành động là bộ ba biện chứng của 
quản lý khoa học, có hiệu quả toàn bộ cá hoạt động kinh tế trong đó nhận thức giữ 
vị trí đặc biệt quan trọng trong việc xác định mục tiêu và sau đó là các nhiệm vụ 
cần đạt tới trong tương lai. Như vậy nếu nhận thức đúng, người ta sẽ có các quyết 
định đúng và tổ chức thực hiện kịp thời các quyết định đó đương nhiên sẽ thu 
được những kết quả như mong muốn. Ngược lại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn tới các 
quyết định sai và nếu thực hiện các quyết định sai đó thì hậu qủa sẽ không thể 
lường trước được. 
Vì vậy phân tích tình hình tài chính là đánh giá đúng đắn nhất những gì đã 
làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra, trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp để tận 
dụng triết để những điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu. 
Tình hình tài chính doanh nghiệp là sự quan tâm không chỉ của chủ doanh 
nghiệp mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng như các nhà đầu tư, người 
cho vay, Nhà nước và người lao động. Qua đó họ sẽ thấy được thực trạng thực tế 
của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh, và tiến hành phân tích hoạt động 
kinh doanh. Thông qua phân tích họ có thể rút ra được những quyết định đúng đắn 
liên quan đến doanh nghiệp và tạo điều kiện nâng cao khả năng tài chính của 
doanh nghiệp. Do đó việc phân tích tài chính trong một doanh nghiệp là hết sức 
cần thiết. Qua thời gian thực tập tại Công ty may Đức Giang em quyết định chọn 
đề tài: "ứng dụng phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh vào phân 
tích tài chính của Công ty may Đức Giang" 
Thực hiện đề tài này với mục đích dựa vào tình hình thực tế hoạt động sản 
xuất kinh doanh của Công ty để ứng dụng phương pháp phân tích, từ đó đánh giá 
hiệu quả đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. 
Chuyên đề gồm 3 chương : 
Chương I: Các phương pháp phân tích tài chính trong doanh nghiệp 
Phần II: Thực trạng về phương pháp phân tích tài chính của Công ty may 
Đức Giang. 
Phần III: Một số giải pháp ứng dụng phương pháp tỷ số và so sánh vào phân 
tích tài chính của Công ty may Đức Giang. 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
CHương I 
các phương pháp phân tích tài chính trong các doanh 
nghiệp 
I-Tầm quan trọng của phân tích tài chính 
1-Tổng quan về tài chính doanh nghiệp 
Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản 
của hoạt động sản xuất kinh doanh .Hoạt động này nhằm thực hiện mục tiêu 
của doanh nghiệp: tối đa hoá giá trị tài sản sở hữu của doanh nghiệp cụ thể 
thành những mục tiêu khác như: tối đa hoá lợi nhuận, tăng trưởng ổn định,... 
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh 
nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp 
chủ yếu bao gồm: 
-Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Đây là mối quan hệ phát 
sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, khi Nhà 
nước góp vốn vào doanh nghiệp. 
-Quan hệ doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thể 
hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị 
trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn 
ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn 
dài hạn. Ngược lại, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần 
cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đâu 
ftư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng. 
-Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: Trong nền kinh 
tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp khác trên thị 
trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động . Đây là những thị trường 
mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, 
tìm kiếm lao động,... Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
có thể xác định nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở 
đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị 
htoả mãn nhu ccầu của thị trường. 
-Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa các bộ phận 
sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ 
nợ, giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn. Các mối quan hệ này 
được thẻ hiện thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: 
chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư chính sách về cơ cấu vốn 
và chi phí vốn,... 
Một doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh, cần 
phải có một lượng tài sản phản ánh bên tài sản của Bảng cân đối kế toán. 
Nếu như toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữa được đánh giá tại một 
thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao 
đổi - chỉ có thể xác định tại một thời điểm nhất định và được phản ánh trên 
báo cáo kết quả kinh doanh. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp có sự 
khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất hoạt động. Sự khác 
biệt này phần lớn do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết 
định. Cho dù vậy, người ta vẫn có thể khái quát những nét chung nhất của 
các doanh nghiệp bằng hàng hoá dịch vụ đầu ra và hàng hoá dịch vụ đầu 
vào. 
Một hàng hoá dịch vụ dầu vào hay một yếu tố sản xuất là hàng hoá hay 
dịch vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản 
xuất-kinh doanh. Các hàng hoá dịch vụ đầu vào kết hợp với nhau tạo ra 
hàng hoá dịch vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hoá dịch vụ có ích được 
tiêu dùng hoặc được sử dụng trong quá trình sản xuất-kinh doanh khá. Như 
vậy trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoà hàng hoá 
dịch vụ đầu vào thành hàng hoá dịch vụ đầu ra để trao đổi. Mối quan hệ 
giữa tài sản hiện có và hàng hoá dịch vụ đầu vào, hàng hoá dịch vụ đầu ra 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
(tức quan hệ giữa bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh) có 
thể mô tả như sau: 
 Hàng hoá dịch vụ sản xuất-chuyển hoá Hàng hoá dịch vụ 
 (mua vào) (bán ra) 
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc 
biệt - đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép các doanh nghiệp mua các hàng 
hoá dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hoá dịch vụ để phục vụ cho mục 
đích trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hện qua trung gian là 
tiền và khái niệm dòng vật chất và dóng tiền phất sinh từ đó, tức sự dịch 
hcuyển hàng hoá, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị và tổ chức 
kinh tế. 
Như vậy ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là 
dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá, dịch 
vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô tả theo sơ đồ sau: 
 Dòng vật chất đi vào Dòng tiền đi ra (xuất quỹ) 
 Dòng vật chất đi ra Dòng tiền đi vào (xuất quỹ) 
 Sản xuất, chuyển hoá là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó được 
đặc trưng bởi thời gian chuyển hoá hàng hoá và dịch vụ, mặt khác nó đặc 
trung bởi yếu tố cần thiết cho sự vận hành - đó là tư liệu lao động và sức lao 
động. Quá trình công nghệ này có tác dụng quyết định đến cơ cấu vốn và 
hoạt động trao đổi của doanh nghiệp. 
Doanh nghiệp thực hiện trao đổi hoặc với thị trường cung cấp hàng hoá 
dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hoá dịch vụ 
Sản xuất 
chuyển hoá 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
đầu ra và tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh 
nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ chính quá 
trình trao đổi đó. Quá trình này quyết định đến sự vận hành của sản xuất làm 
thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Phân tích các quan hệ tài chính của 
doanh nghiệp cần dựa trên hai khái niệm căn bản là dòng và dự trữ. Dòng 
chỉ xuất hiện trên cơ sở tích luỹ ban đầu mỗi hàng hoá, dịch vụ hoặc tiền 
trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm thay đổi khối lượng tài sản tích luỹ 
của doanh nghiệp. Một khối lượng tài sản, hàng hoá, hoặc tiền được đo tại 
một thời điểm là một khoản dự trữ. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở 
nền tảngcủa tài chính doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào bản chất khác nhau của 
các dòng dự trữ mà người ta phân biệt dòng tiền đối trọng và dòng tiền độc 
lập. 
Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời các câu hỏi chính sau đây: 
- Đầu tư vào đâu như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã 
chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? Từ đó đưa ra tổng tiền cần 
đầu tư. 
- Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào để đạt 
được cơ cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất? 
 - Quản lý dòng tiền vào, dòng tiền ra sao cho đảm bảo mức ngân quỹ 
tối ưu thông qua việc trả lời câu hỏi: lợi nhuận doanh nghiệp được sử dụng 
như thế nào?, Phân tích đánh giá kiểm tra các hoạt động tài chính như thế 
nào, để thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?, và quản lý các 
hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra quyết định thu, chi phù 
hợp? 
Nghiên cứu tài chính doanh nghiệp thực chất trả lời ba câu hỏi trên. 
2-Khái niệm, ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu cơ bản trong tài chính 
doanh nghiệp, có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của doanh 
nghiệp. Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp 
và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về 
quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá 
rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của 
Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, đều bình 
đẳng trước nhau trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề và các lĩnh 
vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài 
chính của doanh nghiệp như: chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp 
khách hàng,... kể cả các cơ quan nhà nước và người làm công, mỗi đối 
tượng quan tâm đế tình hình tài chính trên một góc độ khác nhau. Đối với 
chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu 
của họ là khả năng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị sở hữu 
tài sản doanh nghiệp, do đó họ quan tâm trước hết tới lĩnh vực đầu tư và tài 
trợ.đối với người cho vay mối quan tâm chủ yếu của họ là khả năng trả nợ 
hiện tại và tương laicủa doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư khác mối 
quan tâm của yếu của họ là các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng thanh toán... 
Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích 
các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua một hệ 
thống các phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp người sử dụng từ 
các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hơpự khái quát, vừa xem 
xét mọôt cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, để nhận biết, phán 
đoán, dự báo, đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù 
hợp. 
II-Mục tiêu phân tích tài chính 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và 
các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về 
quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá 
rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 
 Quy trình phân tích tài chính hiện nay ngày càng được áp dụng rộng 
rãi ở các đơn vị tự chủ nhất định về tài chính, các tổ chức xã hội, tập thể, các 
cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh 
nghiệp,của ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ 
phân tích tài chính thực sự có ích và cần thiết. 
Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau thì nhằm 
những mục tiêu khác nhau 
1-Đối với nhà quản trị 
Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là 
cơ sở để định hướng ra quyết định của ban tổng giám đốc, giám đốc tài 
chính như quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia cổ tức,..., dự thảo tài chính: 
kế hoạch đầu tư, ngân quỹ, kiểm soát các hoạt động quản lý. Mặt khác, tạo 
thành các chu kỳ đánh giá đều đặn hoạt động kinh doanh tronh quá khứ, tiến 
hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trả nợ, rủi ro 
tài chính của doanh nghiệp. 
2-Đối với nhà đầu tư 
Các cổ đông là các cá nhân hoặc doanh nghiệp, quan tâm trực tiếp đến 
tính toán các giá trị của doanh nghiệp vì họ bỏ vốn cho doanh nghiệp thực 
hiện hoạt động kinh doanh sản xuất và họ có thể chịu rủi ro từ khoản vốn 
đó. Do vậy, các cổ đông cần biết tình hình thu nhập của mình có tương xứng 
với mức rủi ro của khoản đầu tư mà họ chịu. Nhà đầu tư phân tích tài chính 
để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp , đây là một trong những 
căn cứ giúp nhà đầu tư ra quyết có bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không? 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
Thu nhập của các cổ đông tiền chia lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm 
của vốn đầu tư. Hai yếu tố này ảnh hưởng đén lợi nhuận kỳ vọng của doanh 
nghiệp. Các nhà đầu tư thường tiến hành đánh giá khả năng sinh lợi của 
doanh nghiệp với câu hỏi trọng tâm: lợi nhuận bình quân cổ phiếu của công 
ty sẽ là bao nhiêu? Dự kiến lợi nhuận sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong 
chính sách phân chia lợi tức cổ phần và trong nghiên cứu rủi ro hướng các 
lựa chọn vào những cổ phiếu phù hợp nhất. 
3-Đối với người cho vay 
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ 
của khách hàng phân tích. Để đưa ra quyết định cho vay, thì một trong 
những vấn đề mà người cho vay cần phải xem xét là doanh nghiệp thật sự có 
nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào?Bởi 
nhiều khi một quyết định cho vay có ảnh hưởng nặng nề đến tình hình tài 
chính của người cho vay, có thể dẫn đến tình trạng phá sản của người cho 
vay, hay đơn vị cho vay. Phân tích tài chính đối với những khoản nợ dài hạn 
hay khoản nợ ngắn hạn cũng có sự khác nhau. 
Nếu là những khoản nợ ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến 
khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Nghĩa là khả năng ứng phó 
của doanh nghiệp khi khoản nợ tới hạn trả nợ. 
Nếu là những khoản cho vay dài hạn, ngưòi cho vay phải tin chắc khả 
năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp vì việc hoàn trả vốn và 
lãi phụ thuộc vào khả năng sinh lời này 
Kỹ thuật phân tích thay đổi theo bản chất và theo thời hạn của khoản 
vay, nhưng cho đó là khoản vay dài hạn hay nhắn hạn thì người cho vay đều 
quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp 
đi vay. 
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng 
lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
luật sư,...Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau nhưng đều muốn hiểu 
biết về doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ. 
III-thông tin sử dụng trong phân tích tài chính 
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi 
nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp dến những thông 
tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. 
Những thông tin đó đều giúp nhà phân tích có thể dưa ra được những nhận 
xét kết luận tinh tế và thích đáng. 
Những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập thông tin chung như các 
thông tin liên quan đến cơ hội kinh doanh nghĩa là tình hình chung về kinh 
tế tại một thời điểm cho trước. Trạng thái kinh tế: sự suy thoái hay tăng 
trưởng có tác động mạnh mẽ đến kết quả kinh doanh. Khi cơ hội thuận lợi, 
các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận của công ty, giá 
trị của công ty cũng tăng lên, và ngược lại. Khi phân tích tài chính doanh 
nghiệp, điều quan trọng phải nhận thấy sự xuất hiện mang tính chu kỳ:qua 
thời kỳ tăng trưởng thì sẽ đến thời kỳ suy thoái và ngược lại. Đồng thời thu 
thập thông tin về chính sách thuế, lãi suất, các thông tin về ngành kinh 
doanh như thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu 
ngành, và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần...và các 
thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp: các thông tin mà các 
doanh nghiệp phải báo cáo cho các cơ quan quản lý như: tình hình quản lý, 
kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp... 
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh 
nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là 
một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, 
đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan 
trọng nhưng thông tin đánh giá cho phân tích tài chính.Vả lại các doanh 
nghiệp có nghĩa vụ cung cấp các thông tin kế toán cho đối tác bên trong và 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
bên ngoài doanh nghiệp.thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong 
các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo 
cáo tài chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ 
yếu: đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, ngân quỹ (báo 
cáo lưu chuyển tiền tệ). 
1-Bảng cân đối kế toán 
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính mô tả tìng trạng tài chính của 
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là báo cáo tài 
chính có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan 
hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường bảng 
cân đối kế toán dược trình bày dưới dạng bảng cân đối các số dư tài khoản 
kế toán: một bên phản ánh tài sản, một bên phản ánh nguồn vốn của doanh 
nghiệp. 
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản 
hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của 
doanh nghiệp: đó là tài sản lưu động, tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản 
ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm 
lập báo cáo: đó là vốn chủ và các khoản nợ. 
Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán dược sắp xếp theo khả năng 
chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống. 
Bên tài sản 
Tài sản lưu động: tiền chứng khoán ngắn hạn dễ bán, khoản phải thu, 
dự trữ .Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. 
Bên nguồn vốn 
Nợ ngắn hạn bao gồm nợ pahỉ trả nhà cung cấp, các khoản phải 
nộp,phải trả khác nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín 
dụng khác. Nợ dài hạn bao gồm nợ dài hạn vay ngân hàng thương mại và 
Chuyên đề thực tập Tài chính doanh nghiệp 41B 
 Nguyễn thị Vân Khánh 
các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu. Vốn chủ sở 
hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu 
mới. 
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản; 
bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ,cơ cấu vốn cũng có khả năng độc lập 
về tài chính của doanh nghiệp. 
Bên tài sản và bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán đều có các cột 
chỉ tiêu: số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục có trong tài khoản nội 
bảng còn có một số khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài 
khoản thuê ngoài, vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hoá 
nhận bán hộ, ngoại tệ các loại... 
Dựa vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại 
hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tà