Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh tế không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng kinh tế, mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ phần, cổ phiếu, tranh chấp giữa công ty và các thành viên của công ty Vậy, khi phát sinh tranh chấp thì doanh nghiệp cần tìm đến tổ chức nào để giải quyết một cách có hiệu quả, nhanh gọn, tránh những tổn thất quá lớn cho doanh nghiệp?
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Luật Trọng tài thương mại đã được Quốc Hội thông qua tại kỳ họp tháng 6/2010. Đối với nhiều doanh nghiệp, luật này còn khá xa lạ. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam ở nước ta khi xảy ra tranh chấp thương mại 89% trường hợp các bên đưa nhau ra toà án để giải quyết. Trong khi đó, theo thống kê quốc tế, 90% các doanh nghiệp quốc tế chọn con đường trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại và chỉ có 10% số vụ việc là qua toà án. Vì sao đại đa số các doanh nghiệp quốc tế lại chọn giải pháp trọng tài?
Trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ làm ăn với các nước trên thế giới, là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một sân chơi mà vấn đề tranh chấp thương mại diễn ra thường xuyên thì ngay từ lúc này, các doanh nghiệp Việt Nam cần có một cái nhìn nghiêm túc về những ưu thế của trọng tài thương mại.
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4619 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ưu điểm và nhược điểm của Trọng tài thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU.
Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO và nền kinh tế nước ta đã chuyển sang mô hình phát triển theo thể chế thị trường, các tranh chấp kinh tế không những đơn thuần là tranh chấp giữa hai chủ thể giao kết hợp đồng kinh tế, mà còn có những tranh chấp dưới các dạng khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ phần, cổ phiếu, tranh chấp giữa công ty và các thành viên của công ty… Vậy, khi phát sinh tranh chấp thì doanh nghiệp cần tìm đến tổ chức nào để giải quyết một cách có hiệu quả, nhanh gọn, tránh những tổn thất quá lớn cho doanh nghiệp?
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam chủ yếu thông qua hệ thống Toà án và Trung tâm trọng tài. Tuy nhiên, một vấn đề nhận thấy rõ ràng là hệ thống Toà án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ tồn đọng, không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Luật Trọng tài thương mại đã được Quốc Hội thông qua tại kỳ họp tháng 6/2010. Đối với nhiều doanh nghiệp, luật này còn khá xa lạ. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam ở nước ta khi xảy ra tranh chấp thương mại 89% trường hợp các bên đưa nhau ra toà án để giải quyết. Trong khi đó, theo thống kê quốc tế, 90% các doanh nghiệp quốc tế chọn con đường trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại và chỉ có 10% số vụ việc là qua toà án. Vì sao đại đa số các doanh nghiệp quốc tế lại chọn giải pháp trọng tài?
Trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ làm ăn với các nước trên thế giới, là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một sân chơi mà vấn đề tranh chấp thương mại diễn ra thường xuyên thì ngay từ lúc này, các doanh nghiệp Việt Nam cần có một cái nhìn nghiêm túc về những ưu thế của trọng tài thương mại.
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua một Trung tâm trọng tài thương mại hoặc trọng tài vụ việc khi giữa các bên có thoả thuận trọng tài nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng thương mại.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi nhà nước (phi chính phủ) do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các tranh chấp thương mại. Trọng tài chính là bên trung gian thức ba được các bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Cũng giống như thương lượng và hòa giải, phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyên. Để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết, cá bên phải có thỏa thuận trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giống với hòa giải ở chỗ, cả hai phương thức này đều có sự xuất hiện của người thứ ba. Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải, vai trò của người thứ ba chỉ mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau. Còn trong phương thức trọng tài, sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên.
Điều kiện tiên quyết để giải quyết tranh chấp thương mại theo phương thức trọng tại thương mại là trước đó các bên phải có thoả thuận trọng tài.
Khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đó là: nguyên tắc thỏa thuận trọng tài; nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan; nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật; nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên; nguyên tắc giải quyết một lần.
Về trình tự giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại, thi hành quyết định trọng tài cũng như sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại đều đã được quy định khá cụ thể trong Luật trọng tài thương mại năm 2010 (TTTM) có hiệu lực từ 1/1/2011.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại được tiến hành thông qua hai hình thức trọng tại đó là trọng tài vụ việc hoặc trọng tài thường trực.
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành cho mình.
Trọng tài vụ việc là hình thức tổ chức đơn giản, linh hoạt và mềm dẻo về phương thức hoạt động nên nói chung nó phù hợp với những tranh chấp ít tình tiết phức tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng và nhất là những vụ tranh chấp có kiến thức và hiểu biết pháp luật cũng như kinh nghiệm tranh tụng.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định. Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân tồn tại độc lập với nhau.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm.
II. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức trọng tài thương mại.
II.1.Ưu điểm.
Khác với phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, thương lượng, phương thức trọng tài thương mại được pháp luật quy định về trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp thương mại tại Luật trọng tài thương mại năm 2010. Phương thức này có những ưu điểm mà các bên cần quan tâm khi lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp. Đó là:
Thứ nhất, trọng tài thương mại tôn trọng tối đa ý chí tự do thỏa thuận của các bên. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước như phán quyết của tòa án) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự do lựa chọn của các bên. Điều này được thể hiện ở quyền chọn Trọng tài viên của các bên. Các bên có thể chọn một Hội đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trọng tài viên để thành lập hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp. Tuỳ theo hình thức trọng tài mà các bên lựa chọn, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên trong một trung tâm trọng tài, trọng tài viên ở bất kì trung tâm trọng tài nào, hoặc người không có tên trong danh sách trọng tài viên. Các bên tranh chấp còn có quyền lựa chọn địa điểm, thời gian giải quyết. Đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể lựa chọn pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp và ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính năng động, linh hoạt và mềm dẻo cao hơn so với phương thức bằng Tòa án. Tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Đồng thời Hoạt động xét xử của Trọng tài là liên tục vì Hội đồng Trọng tài xét xử vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện, các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ/việc. Chính điều này có lợi ngay cả khi các bên luôn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận,. Tức là trong suốt quá trình giải quyết vụ việc thỏa thuận về sự hòa giải của 2 bên luôn được lắng nghe và được tạo điều kiện thuận lợi nhất để hòa giải để tìm được sự đồng thuận. Điều mà ít khi xảy ra trong tố tụng kinh tế diễn ra tại các phiên tòa xét xử tranh chấp. Nếu như các bên hòa giải thành công đã đồng ý thì ra biên bản hòa giải và công nhận biên bản.
Hoạt động xét xử của trọng tài là liên tục cũng có thể làm tiết kiệm thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa án thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba, đảm bảo giữ bí mật nội dung tranh chấp. Đó là do nguyên tắc giải quyết tranh chấp giữa các doanh nghiệp của trọng tài là không công khai. Chính vì vậy sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các bên rơi vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một người chiến thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc. Trong một vụ tranh chấp, dù là nguyên đơn hay bị đơn, một khi đã ra toà thì uy tín của thương hiệu ít nhiều giảm sút nơi khách hàng. Trong quá trình kinh doanh, bí quyết kinh doanh là yếu tố quan trọng nhất là những lĩnh vực sở hữu trí tuệ, công nghệ cao, nếu giải quyết tại toà án sẽ có nguy cơ lộ bí mật. Ảnh hưởng đó mờ nhạt hơn khi giải quyết bằng con đường trọng tài. Trong thời đại Internet thì mọi thông tin đều có khả năng lan truyền rất nhanh và rất rộng vì thế giữ vững uy tín và thương hiệu luôn luôn là phương châm phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Đây là đặc điểm khác biệt so với việc giải quyết tranh chấp tại toà án và là ưu điểm nổi trội của phương thức trọng tài.
Bên cạnh đó việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện. Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, sự hợp tác , thiện chí giữa các bên… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.
Thứ tư, trọng tài viên có kiến thức chuyên môn cao. Các trọng tài viên thường là người có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong một số lĩnh vực cụ thể, như bảo hiểm, tài chính, vận tải, xây dựng… Những tranh chấp chuyên ngành này đòi hỏi người phân xử phải có kiến thức rộng và am hiểu trong lĩnh vực đó. Do vậy, việc giải quyết sẽ được chính xác và khách quan hơn.
Luật TTTM cũng đã quy định rõ tiêu chuẩn trọng tài viên. Điều 20 Luật TTTM có quy định rõ cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong danh sách của mình (khoản 3, Điều 20). Trong trường hợp đặc biệt, các bên đương sự có thể lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ (khoản 1, điểm c, Điều 20). Luật TTTM 2010 cũng không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời việc quy định những trọng tài viên phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu và năng lực chuyên môn sẽ đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và đúng đắn.
Thứ năm, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi Chính phủ, nhưng được hỗ trợ, đảm bảo về pháp lý của toà án trên nhiều mặt như: Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
Nhằm giúp cho cơ chế tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả, Luật TTTM 2010 cũng đã cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (quy định tại Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định này là sự tiếp thu những quy định mẫu của UNCITRAL được thông qua 2006. Điều này cũng thể hiện sự tiếp thu và từng bước điều chỉnh của cơ quan lập pháp Việt Nam để các quy định trọng tài thương mại Việt Nam hội nhập với các thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại theo phương thức trọng tài được đảm bảo bằng sự cưỡng chế từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tại điều 66 của luật trọng tài thương mại 2010 quy định về quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài :
“1. Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.
2. Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật này.”
Với sự hỗ trợ từ phía cơ quan tư pháp, quyết định trọng tài được thi hành một cách triệt để tạo điều kiện cho tranh chấp được giải quyết một cách dứt điểm, tránh tình trạng một bên kéo dài thời gian thi hành án. Có thể nói, đây là ưu điểm nổi trội so với hai phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thương lượng và hòa giải.
Thứ sáu, phán quyết trọng tài là phán quyết chung thẩm không thể bị kháng cáo, kháng nghị theo bất cứ thủ tục nào, quy định này khác hẳn với việc giải quyết tại toà án thông qua nhiều cấp xét xử. Quyết định trọng tài sẽ được thi hành nếu như quyết định đó là hợp pháp (khi không có đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, hoặc hội đồng xét xử đã bác đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài) các bên phải nghiêm chỉnh chấp hành. Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Chính điều này tạo điều kiện cho tranh chấp được giải quyết một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp.
Thứ bảy, phương thức giải quyết tranh chấp theo trọng tài thương mại được sự thừa nhận của quốc tế. Trọng tài thương mại không đại diện cho quyền lực Nhà nước nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau (Toà án nói là được độc lập nhưng cũng dễ bị chi phối bởi quyền lợi dân tộc, do đó các bên tranh chấp có quốc tịch khác nhau thường không thích chọn toà án của nhau). Vì vậy, họ thường thích chọn trọng tài, nhất là trọng tài của nước thứ ba để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài đã quy định rằng các nước thành viên của công ước này có nghĩa vụ công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài của nước bên kia cũng là thành viên.
II.2 Nhược điểm.
Thứ nhất, hiệu lực thi hành của quyết định trọng tài thương mại mặc dù được sự hỗ trợ từ phía cơ quan thi hành án cấp tỉnh nhưng nói chung vẫn còn thấp. Một trong những lý do quan trọng khiến doanh nghiệp ít lựa chọn trọng tài để xử lý tranh chấp là do hiệu quả thi hành án chưa cao, doanh nghiệp “hồ nghi” sức mạnh của phán quyết trọng tài. Sự thành công của trọng tài phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định trọng tài có được thi hành hay không. Khi các bên kinh doanh đã lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp, điều mà họ hướng tới là sự đền bù về tiền bạc chứ không phải là một tờ giấy ghi phán quyết không được thi hành. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu yêu cầu thi hành quyết định của trọng tài có tính khả thi hay không khi hiện nay khối lượng án trọng thi hành án dân sự còn tồn rất lớn. Đây rõ ràng là quy định chưa thể thực hiện được trong hoàn cảnh hiện tại. Cơ quan thi hành án chưa thể gánh vác thêm nhiệm vụ mới khi công tác thi hành án vẫn đang là một vấn đề. Vì vậy quyền yêu cầu thi hành quyết định của trọng tài trước mắt khó có thể được đảm bảo, bởi cơ quan thi hành án còn nhiều hạn chế.
Pháp luật về trọng tài thương mại quy định cơ quan thi hành án có trách nhiệm cưỡng chế việc thi hành, tuy nhiên với những phán quyết của toà án kinh tế đã là quá tải đối với cơ quan thi hành án. Do vậy, đứng trước bản án của Toà kinh tế và quyết định của trung tâm trọng tài, chắc chắn bản án, quyết định của toà án sẽ được thi hành trước.
Thứ hai, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ không trực thuộc nhà nước, họ hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi. Nguồn thu chủ yếu của các trung tâm trọng tài là từ lệ phí giải quyết tranh chấp thương mại, do vậy chi phí cho một vụ việc tranh chấp được giải quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài thường cao và tốn kém hơn phí tòa án. Theo Luật TTTM thí phí trọng tài được quy định tại Điều 43 bao gồm:
“a) Thù lao Trọng tài viên, chi phí đi lại và các chi phí khác cho Trọng tài viên;
b) Phí tham vấn chuyên gia và các trợ giúp khác theo yêu cầu của Hội đồng trọng tài;
c) Phí hành chính;
d) Phí chỉ định Trọng tài viên vụ việc của Trung tâm trọng tài theo yêu cầu của các bên tranh chấp;
đ) Phí sử dụng các dịch vụ tiện ích khác được cung cấp bởi Trung tâm trọng tài.”
Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng chi trả.
Thứ ba, Phán quyết của trọng tài, tuy là chung thẩm, nhưng bên bị đơn có thể yêu cầu toà án xem xét lại. Như vậy, phán quyết của trọng tài nhiều lúc làm cho bên “thắng kiện” không yên tâm. Mà lo ngại về việc nếu như phán quyết của Hội đồng trọng tài bị hủy thì sẽ dẫn tới việc tranh chấp giữa các bên dường như “vẫn còn nguyên” và việc giải quyết tranh chấp này sẽ lại phải bắt đầu lại từ đầu nếu họ muốn bảo vệ quyền lợi của mình. Điều này sẽ làm mất không ít thời gian, chi phí… ảnh hưởng rất nhiều tới công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
III. Thực trạng áp dụng và một số kiến nghị để hoàn thiện phương thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam.
III.1. Thực trạng.
Hiện nay, mặc dù có những ưu điểm như đã đề cập nhưng việc giải quyết tranh chấp thương mại lại không được các doanh nghiệp quan tâm. Đánh giá một cách khách quan và khái quát thì trọng tài chưa thể hiện được vai trò cuả mình với chức năng là một cơ quan tài phán có vai trò hỗ trợ đắc lực cho Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã xuất hiện từ rất lâu với đủ cả hình thức văn bản nghị định, pháp lệnh và luật điều chỉnh. Như vậy trọng tài thương mại hoàn toàn không phải là điều mới mẻ, nhưng lại vẫn còn quá lạ lẫm, mờ nhạt trên thị trường.
Trên thực tế, vẫn còn rất nhiều doanh nhân và doanh nghiệp chưa quan tâm đến cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài cũng như sự hiện hữu của các Trung tâm Trọng tài thương mại. Đại diện Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp cho biết, qua khảo sát sơ bộ các doanh nghiệp thì hầu hết hợp đồng kinh doanh của các doanh nghiệp đều thiếu điều khoản về giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, hoặc có cũng chỉ rất sơ sài và rất khó thực thi.
Theo báo cáo của Trung tâm Trọng tài Thương mại TP. Hồ Chí Minh, thì trong 6 tháng đầu năm 2004, Tr