LDN 2005 không đưa ra định nghĩa khái quát về công ty hợp danh mà xây dựng khái niệm công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm của công ty hợp danh (Điều 130 LDN 2005). Theo đó, công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Có thể thấy, nội hàm của khái niệm công ty hợp danh ở Việt Nam tương đối rộng. Căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản thì công ty hợp danh theo LDN 2005 được chia ra thành hai loại, bao gồm: Công ty hợp danh chỉ bao gồm những thành viên hợp danh, và công ty hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
16 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2664 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ưu nhược điểm của các quy định pháp luật về công ty hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Khái niệm công ty hợp danh
LDN 2005 không đưa ra định nghĩa khái quát về công ty hợp danh mà xây dựng khái niệm công ty hợp danh dưới dạng liệt kê các đặc điểm của công ty hợp danh (Điều 130 LDN 2005). Theo đó, công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Có thể thấy, nội hàm của khái niệm công ty hợp danh ở Việt Nam tương đối rộng. Căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản thì công ty hợp danh theo LDN 2005 được chia ra thành hai loại, bao gồm: Công ty hợp danh chỉ bao gồm những thành viên hợp danh, và công ty hợp danh có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
II. Phân tích một số quy định của pháp luật về công ty hợp danh theo LDN 2005:
Công ty hợp danh theo quan niệm của LDN năm 2005 phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, có nghĩa là hai người chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty. Bản chất của công ty hợp danh (general partnership) đúng nghĩa là sự liên kết của các thương nhân đơn lẻ (sole trader hay sole proprietorship) để kinh doanh dưới một tên hãng chung. Vì vậy, công ty hợp danh phải có từ hai thành viên hợp trở lên, nếu không thì sẽ vẫn chỉ là thương nhân đơn lẻ.
Thành viên hợp danh theo LDN năm 2005 phải là cá nhân, có nghĩa là pháp nhân không thể góp vốn thành lập công ty hợp danh. Như đã nói ở trên, bản chất ban đầu của công ty hợp danh là sự liên kết giữa các thương gia thể nhân hay thương nhân đơn lẻ để cùng kinh doanh dưới một tên hãng chung. Tuy nhiên, ngày nay khi đã cách xa cái thủa ban đầu đó hàng thiên niên kỷ, thì công ty hợp danh mang bản chất là sự liên kết giữa các thương nhân mà trong đó có cả thương gia thể nhân và thương gia pháp nhân, có nghĩa là thành viên của công ty hợp danh có thể là pháp nhân. Về mặt lý thuyết cho thấy pháp nhân mô phỏng vị trí pháp lý của thể nhân. Nó có tên gọi, cơ sở, quốc tịch, ý chí, sản nghiệp, trách nhiệm, có nghĩa là nó có các quyền dân sự như thể nhân trừ một số quyền đặc trưng của thể nhân như về gia đình, về chính trị... Đứng trước pháp luật, thể nhân hay pháp nhân đều được gọi là người, nhưng để phân biệt giữa chúng người ta gắn vào đó các tính từ. Sự phân biệt như vậy là cần thiết để thiết lập đời sống pháp lý khác nhau cho chúng, song sự phân biệt đó không làm cản trở tới việc tham gia vào các hoạt động kinh tế của pháp nhân.
III. Bình luận các quy định của LDN 2005 về công ty hợp danh:
1. Ưu điểm
Để khắc phục những thiếu sót của LDN năm 1999 về loại hình công ty hợp danh còn quá sơ sài, chưa đủ tầm điều chỉnh những vấn đề phát sinh và hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, LDN năm 2005 đã sửa đổi, bổ sung và quy định mới ở một số nội dung cho phù hợp, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
a. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia các giao dịch, khoản 2 Điều 130 LDN năm 2005 công nhận loại hình công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
Theo đó, công ty hợp danh có bản chất pháp lý sau:
- Là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung; ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Khoản 2 Điều 130 LDN năm 2005 quy định “Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.” đã tạo điều kiện thuân lợi hơn rất nhiều cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Bởi lẽ, trong hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn còn một số văn bản hạn chế hoạt động đối với các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân trong một số lĩnh vực như xây dựng và đấu thầu. Việc quy định luật này đã thể hiện sự đổi mới trong tư duy của các nhà lập pháp Việt Nam và có ý nghĩa tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn về hình thức hoạt động cho các nhà đầu tư. Việc thừa nhận tính pháp nhân của công ty hợp danh có lợi hơn, nhằm đảm bảo cho các loại hình doanh nghiệp này có đầy đủ tư cách pháp lý khi tham gia các hoạt động giao dịch cũng như tham gia tố tụng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế nước nhà.
b. LDN năm 2005 không còn quy định bắt buộc nhà đầu tư phải thành lập công ty hợp danh khi kinh doanh một sô ngành nghề nhất định như: kế toán và kiểm toán, thiết kế các công trình xây dựng, khám và chữa bệnh, dịch vụ pháp lý. Quy định này có ý nghĩa tạo cơ hội cho nhà đầu tư được quyền lựa chọn loại hình đầu tư để hoạt động kinh doanh.
Việc thực hiện góp vốn và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp trong công ty hợp danh là một quy định mới trong LDN năm 2005 nhằm cụ thể hóa trách nhiệm của thành viên công ty trong trường hợp không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết góp. LDN năm 2005 cũng quy định rõ số vốn chưa góp đủ là khoản nợ của thành viên đối với công ty và việc góp chậm, không đủ số vốn cam kết là một lý do mà thành viên có thể bị khai trừ ra khỏi công ty. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi của thành viên, Điều 131 LDN năm 2005 cũng quy định trách nhiệm của công ty là phải cấp giấy chứng nhận góp vốn cho thành viên công ty khi họ đã góp đủ số vốn cam kết góp. Bên cạnh đó, Điều 132 LDN năm 2005 cũng quy định rõ về nguồn gốc hình thành nên tài sản của công ty. Đây cũng là một điểm mới của LDN năm 2005 so với LDN năm 1999.
c. LDN năm 2005 đưa ra những hạn chế đối với quyền hành của thành viên hợp danh
Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại; thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác và thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại. Việc LDN năm 2005 quy định hạn chế này nhằm đảm bảo thực hiện trách nhiệm tài sản vô hạn của thành viên hợp danh đối với công ty khi có phát sinh các rủi ro hoặc nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng.
d. Bên cạnh đó, điểm đ khoản 2 Điều 134 LDN năm 2005 đã quy định rõ hơn về việc thành viên hợp danh phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết sô nợ còn lại của công ty nếu tài sản của công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty.
Như vậy trách nhiệm tài sản của thành viên hợp danh chỉ được xác lập khi tài sản còn lại của công ty không đủ để thanh toán nợ, nghĩa là khi đó chủ nợ có quyền yêu cầu bất cứ thành viên hợp danh nào có trách nhiệm thanh toán số nợ còn lại của mình. Thành viên hợp danh đã thanh toán nợ cho chủ nợ có quyền yêu cầu các thành viên hợp danh khác thanh toán lại cho mình phần nợ đã thanh toán tương ứng với nhĩa vụ của từng thành viên hợp danh.
e. Kế thừa những quy định của LDN năm 1999, Điều 136 LDN năm 2005 đã quy định chi tiết hơn việc triệu tập họp Hội đồng thành viên.
Theo đó, Chủ tịch Hội đồng thành viên có thể triệu tập hợp Hội đồng thành viên khi xét thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của thành viên hợp danh. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên không triệu tập họp theo yêu cầu của thành viên hợp danh thì thành viên đó triệu tập họp Hội đồng thành viên. Hình thức thông báo mời họp có thể bằng giấy mời, điện thoại, fax, telex hoặc các phương tiện điện tử khác. Thông báo mời họp phải nêu rõ mục đích, yêu cầu và nội dung họp, chương trình và địa điểm họp, tên thành viên yêu cầu triệu tập họp.
f. Điều 137 LDN năm 2005 quy định các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty.
Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó. Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty. Khi một số hoặc tất cả thành viên hợp danh cùng thực hiện một số công việc kinh doanh thì quyết định được thông qua theo nguyên tắc đa số. Hoạt động do thành viên hợp danh thực hiện ngoài phạm vi hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký của công ty đều không thuộc trách nhiệm của công ty, trừ trường hợp hoạt động đó đã được các thành viên còn lại chấp thuận.
g. Về hồ sơ đăng ký kinh doanh
Điều 17 LDN năm 2005 quy định, hồ sơ đăng ký kinh doanh của công ty hợp danh gồm:
- Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền quy định.
- Dự thảo Điều lệ công ty.
- Danh sách thành viên, bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của mỗi thành viên.
- Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty hợp danh kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định.
- Chứng chỉ hành nghề của thành viên hợp danh và cá nhân khác đối với công ty hợp danh kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.
2. Hạn chế
Bên cạnh việc kế thừa và phát triển theo các quy định của LDN 1999, LDN 2005 vẫn bộc lộ những bất cập nhất định qua các quy định về công ty hợp danh.
a. Quy định không nhất quán về giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh, gây khó khăn trong áp dụng pháp luật:
Theo điểm c khoản 1 Điều 130 LDN 2005 trách nhiệm của thành viên góp vốn đối với các khoản nợ của công ty được giới hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Tuy nhiên với quy định tại Khoản 3 Điều 131 và điểm a khoản 2 Điều 140 LDN 2005 thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Quy định không nhất quán về giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh dẫn đến cách vận dụng khác nhau trong thực tiễn pháp luật.
Theo nguyên tắc áp dụng pháp luật, Điều 131 và Điều 140 LDN 2005 là những điều luật cần được ưu tiên áp dụng trước Điều 131 LDN 2005. Theo đó, thành viên góp vốn sẽ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi sô vốn đã cam kết góp. Tuy nhiên, vận dụng các nguyên tắc áp dụng pháp luật để lựa chọn điều luật áp dụng trong trường hợp này cũng chỉ là giải pháp tình thế. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung LDN 2005 để đảm bảo tính nhất quán về nội dụng pháp lý này.
b. Tư cách pháp lý mới của công ty hợp danh (có tư cách pháp nhân) mâu thuẫn với quy định của Bộ luật dân sự ( 2005).
LDN 2005 thừa nhận công ty hợp danh là một pháp nhân trong khi vẫn quy định chế độ trách nhiệm vô hạn của ít nhất hai thành viên hợp danh đối với các khoản nợ của công ty là chưa nhất quán với quy định về pháp nhân của BLDS 2005 . Khoản 3 Điều 84 BLDS 2005 quy định pháp nhân không những phải có tài sản độc lập với cá nhân tổ chức khác mà pháp nhân còn phải chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Theo LDN 2005 khi tài sản của công ty hợp danh không đủ thanh toán thì các thành viên hợp danh còn phải đem tài sản riêng của mình để thanh toán các khoản nợ đến hạn của công ty. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 93 BLDS 2005 quy định : “Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.”. Bởi vậy, trong trường hợp trên, theo quy định của LDN 2005 thì rõ ràng thành viên pháp nhân đã phải chịu trách nhiệm dân sự thay pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.
c. Không có cơ sở lý luận và thực tiễn xác đáng khi vẫn tiếp tục cấm công ty hợp danh phát hành các loại chứng khoán như quy định của LDN 1999 trong khi LDN 2005 đã thừa nhận công ty hợp danh là pháp nhân
Hiện nay theo quy định của LDN 2005 tất cả các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đều được phát hành trái phiếu trừ công ty hợp danh. Nguyên nhân của sự khác nhau về quyền phát hành chứng khoán giữa công ty hợp danh với các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động theo. LDN 2005 xuất phát từ tính chất đóng và hạn chế tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh. Thực tế, lý do này là chưa thỏa đáng. Cổ phiếu (phổ thông) đem lại quyền sở hữu và quyền quản trị công ty cho chủ sở hữu cổ phần là các cổ đông. Trái phiếu đem lại trái quyền cho chủ sở hữu trái phiếu đó, họ trở thành chủ nợ của công tyvà việc phát hành trái phiếu chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Có vậy, việc pháp luật không cho phép công ty hợp danh phát hành cổ phiếu là hoàn toàn phù hợp với bản chất của công ty này. Nhưng việc phát hành trái phiếu để huy động vốn không ảnh hưởng đến tính chất đóng và hạn chế tiếp nhân thành viên mới của công ty hợp danh. Thêm vào đó, đứng từ góc độ quyền lợi của những nhà đầu tư có thể thấy chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh chính là một bảo đảm pháp lý an toàn và quan trọng trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của những nhà đầu tư.
d. Tăng quyền hạn “nửa vời” cho các thành viên góp vốn tại Hội đồng thành viên của công ty
LDN 2005 đã thừa nhận sự có mặt của thành viên góp vốn trong Hội đồng thành viên của công ty hợp danh. Đây là điểm mới của LDN 2005 so với LDN 1999. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thành viên góp vốn có những quyền nhất định khi tham gia vào các cuộc họp của Hội đồng thành viên và được pháp luật bảo hộ. Nhưng LDN 2005 đã cho thấy một thực tế hoàn toàn trái ngược. Những thành viên góp vốn có những quyền lợi riêng khi tham gia vào công ty hợp danh nhưng pháp luật hiện hành mà cụ thể là LDN 2005 lại thiếu cơ chế bảo vệ quyền và lọi ích hợp pháp của họ. Có thể nói như vậy bởi vì mọi việc từ lớn đến nhỏ, từ quan trọng tới không quan trọng trong công ty đều phụ thuộc vào quyết định của thành viên hợp danh mặc dù thành viên góp vốn cũng có quyền biểu quyết về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ. Điều này thể hiện ở sự chấp thuận tối thiểu của thành viên hợp danh theo luật định đối với mỗi vấn đề trong công ty. Những vấn đề quan trọng được quy định tại khoản 3 Điều 135 LDN 2005 chỉ được thông qua nếu ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận, tỷ lệ cụ thể do Điều lệ quy định. Rõ ràng, thành viên góp vốn có quyền biểu quyết về một sô vấn đề của công ty theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 LDN 2005 nhưng việc biểu quyết của họ không là ảnh hưởng đến quyết định của hội đồng thành viên. Với những quy định hiện hành của LDN 2005 vô hình chung quyền của các thành viên góp vốn trong công ty hợp danh chỉ tồn tại một cách hình thức, “ hữu danh vô thực”
e. Quy định “ mập mờ” về người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh dẫn đến cách hiểu và vận dụng pháp luật khác nhau trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Quy định của LDN 2005 về người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh cũng có điểm khác biệt lớn so với quy định này ở các loại hình doanh nghiệp khác hoạt động theo LDN 2005. Đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, LDN 2005 quy định rõ người đại diện theo pháp luật của công ty. Với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, người đại diện theo pháp luật của công ty là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc do điều lệ công ty quy định (Điều 46 LDN 2005); người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc hoặc Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc do điều lệ công ty quy định (Khoản 5 Điều 67 LDN 2005); đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc tổng giám đốc do điều lệ công ty quy định (Điều 95 LDN 2005). Tuy nhiên, LDN 2005 đã không quy định ai là người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh mà tại khoản 1 Điều 137 LDN 2005 chỉ quy định: “Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật” . Từ quy định này của LDN 2005, nhiều học giả đều cho rằng, tất cả các thành viên hợp danh đều là người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh.
Tuy nhiên ý kiến này chưa được đồng tình, bởi lẽ:
- Thứ nhất khi LDN 2005 quy định : “ Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật” thì điều này có nghĩa là đại diện theo pháp luật cho công ty là “quyền” của thành viên hợp danh mà đã là “ quyền” thì thành viên hợp danh có thể thực hiện hoặc không thực hiện. Điều này sẽ dẫn đến trường hợp không có người đại diện theo pháp luật cho công ty hợp danh trong những trường hợp cần thiết khi mà tất cả các thành viên hợp danh đều không muốn thực hiện quyền đó.
- Thứ hai không phải mọi thành viên hợp danh có đầy đủ các “quyền” của người đại diện theo pháp luật. Mặc dù có quyền đại diện theo pháp luật, song thành viên hợp danh lại không có quyền đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước, đại diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp khác. Các quyền này chỉ thuộc về Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ( điểm đ khoản 4 Điều 137 LDN 2005)
- Thứ ba công ty hợp danh đã được thừa nhận là pháp nhân. Bởi vậy không thể tất cả các thành viên hợp danh đều là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được. Chúng tôi cho rằng, pháp nhân chỉ có một đại diện theo pháp luật mà không thể cùng một thời điểm pháp nhân lại có nhiều đại diện theo pháp luật.
g. Bất cập về hạn chế quyền đổi với thành viên hợp danh trong công ty hợp danh
Nếu cho phép thành viên hợp danh của công ty hợp danh đồng thời là chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác ( khi được các thành viên hợp danh còn lại đồng ý) thì bất cập sẽ nảy sinh trong trường hợp tất cả các doanh nghiệp mà người này tham gia ( với tư cách là chủ sở hữu DNTN hoặc thành viên hợp danh) đều bị phá sản mà doanh nghiệp không có đủ tài sản để trang trải mọi khoản nợ của mình. Khoản 1 Điều 133 LDN 2005 đã quy định theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận của thành viên hợp danh. Nhưng rõ ràng bất cập cũng đã tồn tại từ chính quy định này.
3. Một số kiến nghị
a. Sửa đổi điểm c khoản 1 Điều 130 LDN 2005:
Như đã phân tích ở trên, quy định của LDN 2005 có sự mâu thuẩn giữa điểm c khoản 1 Điều 130 LDN 2005 với khoản 3 Điều 131 LDN 2005. Vì vậy, để đảm bảo tính nhất quán giữa các điều luật trong LDN 2005, điểm c khoản 1 Điều 130 LDN 2005 cần được sửa đổi theo hướng: “Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty”
b. Sửa đổi quy định về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong Bộ luật dân sự 2005 để mở đường cho sự phát triển của LDN 2005:
Như đã phân tích, công ty hợp danh mặc dù có độc lập về tài sản nhưng việc quy định loại hình công ty này có ít nhất hai thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty, trong khi LDN 2005 lại thừa nhận công ty hợp danh là một pháp nhân là có sự mâu thuẫn với khoản 3 Điều 84 và khoản 3 Điều 93 Bộ luật dân sự 2005. Để giải quyết tình trạng này có thể sửa đổi các quy định hiện hành theo một trong hai hướng :
Thứ nhất, sửa đổi LDN 2005 theo hướng không thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh giống như quy định của LDN 1999. Quy định này phù hợp với quan điểm cổ điển về pháp nhân đã được thể hiện qua Bộ luật dân sự 1995 và tiếp tục được kế thừa ở BLDS 2005.
Thứ hai sửa đổi về quy định trách nhiệm dân sự của pháp nhân tại khoản 3 Điều 93 BLDS 2005 theo hướng mở. Cụ thể , khoản 3 Điều 93 BLDS 2005 sửa đổi như sau: “ Thành