Đề tài Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục về sức khỏe sinh sản cho con cái trong độ tuổi dậy thì

Như ta đã biết gia đình là một môi trường vi mô có vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn xã hội hóa ban đầu của trẻ em, nhưng quá trình xã hội hóa đó không chỉ dừng lại ở việc nuôi nấng, chăm sóc, rèn luyện các thói quen, kỹ năng, kinh nghiệm xã hội từ khi còn nhỏ mà còn diễn ra suốt cả cuộc đời đứa trẻ với tư cách là một quá trình liên tục. Gia đình tham gia vào tất cả các giai đoạn xã hội hóa trong chu trình sống của đứa trẻ. Ở giai đoạn tuổi ấu thơ thì gia đình là môi trường xã hội hóa và tác nhân xã hội hóa duy nhất, giúp đứa trẻ bắt đầu hòa nhập vào thế giới xung quanh. Đến giai đoạn mẫu giáo nhi đồng: ngoài môi trường gia đình thì đứa trẻ bắt đầu có mối quan hệ bên ngoài xã hội như bạn bè, thầy cô. Đến lứa tuổi thiếu niên thì trẻ em tiếp xúc đa dạng với thế giới xung quanh bước đầu hình thành những giá trị, chuẩn mực thiết lập những mối quan hệ xã hội phức tạp tiến tới hình thành nhâ cách độc lập. Ở giai đoạn này gia đinh giúp đỡ và cung cấp cho các em những kinh nghiệm xã hội trong quan hệ và ứng xử và những người xung quanh, động viên, thông cảm, nâng đỡ các em, giúp đỡ các em những kiến thức hiểu biết cần thiết để tự chủ ở giai đoạn tiền dậy thì khi cơ thể có những thay đổi lớn. Khi trưởng thành cá nhân bắt đầu phát triển bản sắc cái tôi, hình thành những kinh nghiệm xã hội ổn định, chuẩn bị bước vào những nhóm làm việc, tổ chức xã hội mới. Lúc này gia đình giúp các cá nhân trưởng thành có định hướng nghề nghiệp, giá trị, hôn nhân. Như vậy, gia đình đống một vai trò xuyên suốt trong các giai đoạn sống của mỗi cá nhân. Trong quá trình giáo dục trẻ em, có nhiều vấn đề mà gia đình cần phải quan tâm: đạo đức, ứng xử, truyền thống, hướng nghiệp, giới tính, sức khỏe sinh sản. Đặc biệt là giáo dục về sức khỏe sinh sản có một vai trò quan trọng giúp đưa trẻ có những hiểu biết để phát triển tâm sinh lý hoàn thiện hơn, đồng thời có những nhận thức và hành vi đúng đắn hơn. Tuy nhiên, việc giáo dục sức khỏe sinh sản không phải giai đoạn nào cũng cần thiết, mà gia đình nên lựa chọn giai đoạn phù hợp với tâm sinh lý của đứa trẻ để chuẩn bị cho đứa trẻ những hành trang thiết thực nhất về bản thân của chúng. Nh ư vậy gia đình cần lựa chọn giai đoạn dậy thì của con trẻ để cung cấp những kiến thức về vấn đề này. Vì tuổi dậy thì là qúa trình chuyển giao về thể chất, sinh lý, nó là một bước ngoặt giúp đứa trẻ bước vào tuổi trưởng thành. Trong lứa tuổi này, trẻ em đã có những suy nghĩ phức tạp, tò mò về những diều chưa biết, muốn khám phá về những bạn khác giới, dấn đến những hành vi lệch chẩn. Ngày nay, với đà đô thị hóa, công nghiệp hóa cùng sự giao lưu rộng rãi của các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, phim ảnh, sách báo. Qua đó nó truyền tải nhiều tri thức một cách ngẫu nhiên, tự phát đến trẻ ở tuổi dậy thì bao gòm cả những tri thức về tình yêu, tình dục mang cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Qua những số liệu điều tra cho thấy đáng báo động: 15% thanh niên Hà Nội, 20% thanh niên thành phố Hồ Chí Minh, 37% thanh niên nông thôn cóquan hệ tình dục trước hôn nhân. Hàng năm nước ta có tới 1 đến 1,4 triệu ca nạo phá thai trong đó ước tính khoảng 20-30% là lứa tuổi thanh thiếu niên. Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác đang thực sự báo động ở lứa tuổi n ày Cho nên việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên là rất quan trọng và nó có thể từ xuất phát từ nhiều phía: Gia đình, nhà trường, xã hội. Nhưng gia đình lại đóng một vai trò quan trọng hơn cả trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái. V ì cha mẹ là những người gần gũi nhất, hiểu rõ nhất về từng giai đoạn phát triển, tính cách, đặc điểm tâm sinh lý của đứa trẻ. Do vậy, vấn đề giáo dục giới tính, đặc biệt là giáo dục về sức khỏe sinh sản trẻ em ở tuổi dậy thì là một vấn đề cấp thiết cần được xem xét một cách hệ thống, nghiêm túc trong bối cảnh phát triển của xã hội hiện nay. Tất cả những gợi ý dó đã hướng cho chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu về: “ Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục vấn đề sức khỏe sinh sản cho con cái trong giai độ tuổi dậythì”. 2. Mục đích nghiên cứu

pdf26 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3857 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục về sức khỏe sinh sản cho con cái trong độ tuổi dậy thì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ CỦA CHA MẸ TRONG VIỆC GIÁO DỤC VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN CHO CON CÁI TRONG ĐỘ TUỔI DẬY THÌ PHẦN MỞ ĐẦU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Như ta đã biết gia đình là một môi trường vi mô có vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn xã hội hóa ban đầu của trẻ em, nhưng quá trình xã hội hóa đó không chỉ dừng lại ở việc nuôi nấng, chăm sóc, rèn luyện các thói quen, kỹ năng, kinh nghiệm xã hội từ khi còn nhỏ mà còn diễn ra suốt cả cuộc đời đứa trẻ với tư cách là một quá trình liên tục. Gia đình tham gia vào tất cả các giai đoạn xã hội hóa trong chu trình sống của đứa trẻ. Ở giai đoạn tuổi ấu thơ thì gia đình là môi trường xã hội hóa và tác nhân xã hội hóa duy nhất, giúp đứa trẻ bắt đầu hòa nhập vào thế giới xung quanh. Đến giai đoạn mẫu giáo nhi đồng: ngoài môi trường gia đình thì đứa trẻ bắt đầu có mối quan hệ bên ngoài xã hội như bạn bè, thầy cô. Đến lứa tuổi thiếu niên thì trẻ em tiếp xúc đa dạng với thế giới xung quanh bước đầu hình thành những giá trị, chuẩn mực thiết lập những mối quan hệ xã hội phức tạp tiến tới hình thành nhâ cách độc lập. Ở giai đoạn này gia đinh giúp đỡ và cung cấp cho các em những kinh nghiệm xã hội trong quan hệ và ứng xử và những người xung quanh, động viên, thông cảm, nâng đỡ các em, giúp đỡ các em những kiến thức hiểu biết cần thiết để tự chủ ở giai đoạn tiền dậy thì khi cơ thể có những thay đổi lớn. Khi trưởng thành cá nhân bắt đầu phát triển bản sắc cái tôi, hình thành những kinh nghiệm xã hội ổn định, chuẩn bị bước vào những nhóm làm việc, tổ chức xã hội mới. Lúc này gia đình giúp các cá nhân trưởng thành có định hướng nghề nghiệp, giá trị, hôn nhân. Như vậy, gia đình đống một vai trò xuyên suốt trong các giai đoạn sống của mỗi cá nhân. Trong quá trình giáo dục trẻ em, có nhiều vấn đề mà gia đình cần phải quan tâm: đạo đức, ứng xử, truyền thống, hướng nghiệp, giới tính, sức khỏe sinh sản... Đặc biệt là giáo dục về sức khỏe sinh sản có một vai trò quan trọng giúp đưa trẻ có những hiểu biết để phát triển tâm sinh lý hoàn thiện hơn, đồng thời có những nhận thức và hành vi đúng đắn hơn. Tuy nhiên, việc giáo dục sức khỏe sinh sản không phải giai đoạn nào cũng cần thiết, mà gia đình nên lựa chọn giai đoạn phù hợp với tâm sinh lý của đứa trẻ để chuẩn bị cho đứa trẻ những hành trang thiết thực nhất về bản thân của chúng. Như vậy gia đình cần lựa chọn giai đoạn dậy thì của con trẻ để cung cấp những kiến thức về vấn đề này. Vì tuổi dậy thì là qúa trình chuyển giao về thể chất, sinh lý, nó là một bước ngoặt giúp đứa trẻ bước vào tuổi trưởng thành. Trong lứa tuổi này, trẻ em đã có những suy nghĩ phức tạp, tò mò về những diều chưa biết, muốn khám phá về những bạn khác giới, dấn đến những hành vi lệch chẩn. Ngày nay, với đà đô thị hóa, công nghiệp hóa cùng sự giao lưu rộng rãi của các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, phim ảnh, sách báo. Qua đó nó truyền tải nhiều tri thức một cách ngẫu nhiên, tự phát đến trẻ ở tuổi dậy thì bao gòm cả những tri thức về tình yêu, tình dục mang cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Qua những số liệu điều tra cho thấy đáng báo động: 15% thanh niên Hà Nội, 20% thanh niên thành phố Hồ Chí Minh, 37% thanh niên nông thôn có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Hàng năm nước ta có tới 1 đến 1,4 triệu ca nạo phá thai trong đó ước tính khoảng 20-30% là lứa tuổi thanh thiếu niên. Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác đang thực sự báo động ở lứa tuổi này Cho nên việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên là rất quan trọng và nó có thể từ xuất phát từ nhiều phía: Gia đình, nhà trường, xã hội... Nhưng gia đình lại đóng một vai trò quan trọng hơn cả trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái. Vì cha mẹ là những người gần gũi nhất, hiểu rõ nhất về từng giai đoạn phát triển, tính cách, đặc điểm tâm sinh lý của đứa trẻ. Do vậy, vấn đề giáo dục giới tính, đặc biệt là giáo dục về sức khỏe sinh sản trẻ em ở tuổi dậy thì là một vấn đề cấp thiết cần được xem xét một cách hệ thống, nghiêm túc trong bối cảnh phát triển của xã hội hiện nay. Tất cả những gợi ý dó đã hướng cho chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu về: “ Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục vấn đề sức khỏe sinh sản cho con cái trong giai độ tuổi dậy thì”. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu vai trò của gia đình về việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái trong tuổi dậy thì hiện nay Đưa ra những nhận xét, khuyến nghị nhằm giúp cho các cha mẹ nhận thức và thực hiện tốt vai trò của mình đồng thời cũng nâng cao vai trò của người cha và người mẹ. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Thao tác hóa các khái niệm liên quan được sử dụng trong nghiên cứu :gia đình.giáo dục , giáo dục gia đình, giáo dục SKSS,trẻ em... Tìm hiểu về thực trạng vấn đề giáo dục sức khỏe cho con cái của các gia đình hiện nay (nhận thức của cha mẹ về giáo dục SKSS, giáo dục những kiến thức gì về sức khỏe sinh sản, giáo dục ở mức độ và phương pháp như thế nào...) Phân tích các yếu tố tác động đến việc giáo dục SKSS của cha mẹ cũng như hành vi tiếp nhận của trẻ Tìm hiểu về những khó khăn của cha và mẹ trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái. So sánh vai trò giữa cha và mẹ trong việc giáo dục con cái ở tuổi dậy thì về vấn đề sức khỏe sinh sản. 4. Đối tượng, khách thể, phạm vi, mẫu nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Vai trò của cha mẹ về việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái trong độ tuổi dậy thì hiện nay ở huyện Thanh Trì – Hà Nội. 4.2. Khách thể nghiên cứu - Phụ huynh của các em học sinh trung học cơ sở (THCS) và học sinh trung học phổ thông (THPT) - Các em học sinh trong độ tuổi dậy thì ( Học sinh THCS và THPT) 4.3. Phạm vi nghiên cứu Thời gian khảo sát: từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2010 Địa bàn khảo sát: Hà Nội Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chỉ tập trung tìm hiểu vai trò của gia đình trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái trong độ tuổi dậy thì. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu xã hội học 5.1. Phương pháp luận Ở đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng làm phương pháp luận. Giáo dục sức khỏe sinh sản là một bộ phận của xã hội hóa cá nhân, nó có lien quan mật thiết với các yếu tố khác . Chính vì vậy, khi nghiên cứu vai trò của cha mẹ trong vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái phải xem xét từng trường hợp, từng điều kiện kinh tế,văn hóa,chính trị, xã hội của từng gia đình. Đồng thời, chúng ta cũng phải đặt việc giáo dục sức khỏe sinh sản trong mối liên hệ với các nhân tố khác như nhà trường, các nhóm xã hội, truyền thông đại chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng phải xem xét vấn đề đó trong một quá trình lich sử cụ thể để xem vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái từ trước đến nay có sự chuyển động như thế nào. 5.2 Phương pháp nghiên cứu xã hội học 5.2.1.Phương pháp phân tích tài liệu Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã đọc và phân tích một số tài liệu liên quan đến vấn đề giáo dục trong gia đình trong đó có giáo dục SKSS con cái trong giai đoạn dậy thì. Đồng thời chúng tôi quan tâm đến báo cáo trên các tạp chí, sách, báo... để đưa vào những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài. 5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu 5.2.3.Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: CHƯƠNG 1 NỘI DUNG CHÍNH 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Lý thuyết cấu trúc chức năng của Robert Merton Đối với đề tài này, chúng tôi áp dụng thuyết cấu trúc chức năng của Robert Merton nhằm tìm hiểu vai trò của gia đình về giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái trong độ tuổi dậy thì hiện nay. Trong đó, cấu trúc được hiểu là mối quan hệ giữa con người và xã hội được định hình một cách ổn định, bền vững và chức năng được xem như là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác dụng mà một thành phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận hành của cả hệ thống1. Nhìn chung trong thuyết này, ông nhấn mạnh đến sự loạn chức năng. Theo đó, ông cho rằng một hiện tượng xã hội đem lại những hệ quả tốt đẹp cho sự phát triển cấu trúc xã hội. Mà mặt khác, nó cũng đem lại những sự tiêu cực, hể hiện qua sự loạn- phản chức năng. Ngoài ra, ông cũng nhấn mạnh đến chức năng trội và chức năng lặn, trong đó thể hiện về ý nghĩa về việc phân biệt về hai loại chức năng này đối với xã hội. Đặc biệt, ông cho rằng người nghiên cứu không nên tin ngay vào những 1 Lê Ngọc Hùng- Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB KHXH, 2008, trang 242 tuyên bố công khai về tác dụng, mục đích của hiện tượng mà cần phải đi tìm hiểu xem thực tế ẩn chứa bên trong thì hiện tượng có chức năng ra sao và làm thay đổi cấu trúc ra sao. Áp dụng lý thuyết chúng tôi đưa ra nhận định gia đình là một thành phần của cấu trúc xã hội, và là một loại thiết chế xã hội nó đảm nhiệm những chức năng cơ bản. Do vậy nó phải thực hiện đầy đủ các chức năng để đáp ứng được các nhu cầu của từng thành viên trong gia đình. Chúng tôi chú ý đến chức năng xã hội hóa của gia đình, trong đó là việc giáo dục cho con cái về sức khỏe sinh sản. 1.1.2. Lý thuyết vai trò của Ralph Linton Theo Ralph Linton, vai trò là một quan điểm cơ bản trong lý thuyết xã hội học nó đánh giá cao những mong đợi xã hội gắn với những vị thế cụ thể và phân tích thực hiện những mong đợi đó. Mỗi cá nhân có một loại vai trò được đem lại từ những hình mẫu xã hội khác nhau mà anh ta tham dự. Trong tiến trình cuộc đời của mỗi cá nhân thực hiện một số những vai trò khác nhau lần lượt hoặc đồng thời và tổng hợp tất cả các vai trò xã hội của cá nhân đó thực hiện từ khi sinh ra cho đến lúc chết tạo thành nhân cách xã hội của người đó. Ralph Linton nói chúng ta giữ các địa vị nhưng chúng ta đóng các vai trò. Vai trò và địa vị không thể tách rời nhau. Sự phân biệt chúng chỉ trong nhận thức khoa học. Không thể cso vai trò mà không có địa vị hoặc ngược lại. Vai trò trở thành một tập hợp các quyền và nghĩa vụ đã được thể hóa có nghĩa là với vị trí mà các cá nhân xã hội hay tổ chức nắm giữ thì chủ thể xã hội đó cần thực hiện tốt những mong đợi, bổn phận và trách nhiệm ở vị trí đó.2 Ở đề tài nghiên cứu này ta có thể thấy rằng địa vị của người cha, người mẹ gắn với những vai trò nhất định, cía mà xã hội, con cái mong đợi. Đó chính là trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục phảm chất đạo đức cho con cái cũng như việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho con cái. Vai trò đó chỉ được thực hiện khi họ tham gia tích cực vào việc giáo dục nói chung và giáo dục sức khỏe sinh sản nói riêng cho con cái. Và làm thỏa mãn những mong muốn của xã hội, của con cái đối với trách nhiệm, nghĩa vụ cụ thể đối với từng cha mẹ trong những hoàn cảnh cụ thể 1.2 KHÁI NIỆM CÔNG CỤ 1.2.1. Khái niệm “Gia đình” Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cho cả một đời người, là môi trường giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách sống có tình có nghĩa, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau, có ý thức trách nhiệm của công dân, tôn trọng pháp luật và giữ gìn đạo lý3 Gia đình là khái niệm được dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân( quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha me, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại...). Gia đình có thể hiểu như là một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính ổn 2 Nguyễn Thị Huệ, Giáo dục giá trị truyền thống cho trẻ ở xã Trường Yên- Hoa Lư- Ninh Bình, 2004, khóa luận tốt nghiệp 3 Từ điển Xã hội học, Thanh Lê, NXB KHXH, 2004, trang 532 định độc lập tương đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết chế xã hội đặ thù. Những thành viên trong gia đình được gứ bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế, văn hóa, tình cảm một cách hợp pháp được nhà nước thừa nhận và bảo hộ4 1.2.2. Khái niệm “vai trò” Vai trò là một tập hợp những kỳ vọng ở trong một xã hội gắn với hành vi của những người mang các địa vị...Ở mức độ này thì mỗi vai trò riêng là một tập hợp hay nhóm các kỳ vọng, hành vi (Dahrandorf)5 1.2.3. Khái niệm “giáo dục” Giáo dục là hoạt động nhằm tác động đến một cách hệ thong đến sự phát triển thể chất tinh thần của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng đó có những phẩm chất và năng lực yêu cầu đề ra .Chức năng cơ bản của giáo dục là xã hội hóa thế hệ trẻ , duy trì tính liên tục văn hóa của xã hội , sự truyền đạt những kinh nghiệm lịch sữ xã hội được tích lũy trong quá trình phát triển của con người nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất xã hội , đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hôi. Giáo dục con cái trong gia đình diễn ra trong phạm vi gia đình khác với các thiết chế khác , nó dựa trên huyết thống , tình cảm thiêng liêng và tính cá biệt của đối tượng giáo dục 5 1.2.4. Khái niệm “Sức khỏe sinh sản” Theo tổ chức Y tế thế giới, SKSS là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan tới bộ máy sinh sản chứ không phải là không có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó. Như vậy SKSS bao hàm ý nghĩa là mọi người đều có thể có một cuộc sống tình dục được thỏa mãn, có trách nhiệm và an toàn đồng thời họ phải có khả năng sinh sản và sự tự do lựa chọn việc có sinh con hay không, thời điểm sinh con và số con. Định nghĩa này cũng bao hàm cả quyền của phụ nữ và nam giới phải được thông tin, tư vấn đầy đủ và được tiếp cận với các biện pháp kế hoạch hóa gia đình an toàn, hiệu quả, phù hợp với khả năng và chấp nhận được theo sự lựa chọn của bản thân họ, và quyền tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp cho người phụ nữ mang thai cũng như sinh đẻ an toàn.6 1.2.5. Khái niệm “ Tuổi dậy thì” Tuổi dậy thì thường được hiểu trùng với khái niệm "tuổi mới lớn" trong tâm lí học lứa tuổi. Quan điểm chung của các nhà tâm lí đều thống nhất rằng tuổi dậy thì là thời kì 4 Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ và gia dình, nay dổi thành viện phụ nữ khoa học và gia đình 5 Lý thuyết xã hội học, Vũ Quang Hào, NXB KHXH, 2000, trang 5 Nguyễn Thị Tố Quyên – LA TS HV Chính tri Quốc Gia Hồ Chí Minh 6 thanh-nien-vit-nam-tinh-hinh-va-cac-chinh-sach.html chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ thơ sang giai đoạn trưởng thành được đánh dấu bằng sự trưởng thành về mặt sinh dục trong sự phát triển cơ thể của các em thiếu niên Tuổi dậy thì bắt đầu từ 10 – 13 tuổi và kết thúc vào 17 – 19 tuổi ( trẻ em gái thường dậy thì sớm hơn trẻ em trai 1- 2 năm) Tuổi dậy thì là giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển con người từ trẻ con thành người lớn. Đặc trưng của giai đoạn này là sự phát triển đạc biệt mạnh mẽ cả về thể chất , tâm lý, tình cảm và khả năng hòa nhập xã hội , cộng đồng.7 Khi nói đến tuổi dậy thì bạn trẻ cần quan tâm đến sự thay đổi về tâm sinh lý. Với những thay đổi này, cần có hiểu biết đầy đủ để tránh những sai lầm không đáng có làm ảnh hưởng đến việc phát triển về tinh thần, thể chất và bệnh tật có thể xảy đến.8 CHƯƠNG 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2. 1. NHẬN THỨC CỦA CHA MẸ VỚI VẤN ĐỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA CON CÁI Tìm hiểu về nhận thức của cha mẹ về SKSS cho con cái mình ở tuổi dậy thì thì ta có thể tìm hiểu trên rất nhiều phương diện, đó là mức độ hiểu biết, quan niệm, suy nghĩ, sự quan tâm, mức độ quan tâm của họ về giáo dục SKSS. Nhận thức là cơ sở để tạo nên hoạt động, có nhận thức đúng thì mới có hành động đúng, phù hợp, nhận thức sai sẽ khiến chúng ta có những hành động lệch lạc. Nhận thức của cha mẹ trong vấn đề SKSS có đúng, có tốt thì việc giáo dục cho con cái họ mới được nâng cao về chất lượng để tác động vào suy nghĩ và tình cảm của chúng trong quá trình phát triển tâm sinh lí. 2.1.1 Sự quan tâm của cha mẹ về việc giáo dục SKSS cho con cái: Trước khi đi vào tìm hiểu về nhận thức của cha mẹ về việc giáo dục SKSS cho con em họ thì ta cần phải xem họ có quan tâm đến vấn đề này không, để từ đó họ sẽ có sự quan tâm ra sao? Những hành động giáo dục ra sao? Khi được hỏi rằng: “Ông/bà có quan tâm đến vấn đề giáo dục SKSS cho con mình không?” thì số người trả lời là “có” chiếm 98%, còn 2% là “không quan tâm”. Như vậy bước đầu tiên ta khẳng định rằng phần lớn các bậc cha mẹ đều có sự quan tâm đến vấn đề giáo dục SKSS cho con họ. Nhưng còn một số ít lại nói rằng họ không quan tâm. Điều này cũng khẳng định một điều rằng vẫn còn một số cha mẹ còn thiếu hụt kiến thức và coi đây là vấn đề không đáng quan tâm. Thông qua điều tra bằng bảng hỏi về sự quan tâm của cha mẹ với con cái về SKSS ta có: 7 8 Bảng 1: Tương quan giữa giới và sự quan tâm đến giáo dục SKSS của cha mẹ Nam Nữ Số người % Số người % Có 39 95.1 61 100 Không 2 4.9 0 0 Tổng 41 100 61 100 Chỉ có 2 người nam là không quan tâm đến giáo dục SKSS cho con. Hầu hết dù là cha hay mẹ thì họ sự quan tâm của họ về giáo dục SKSS là khá đồng đều. Trong rất ít những người không quan tâm đến giáo dục SKSS cho con cái thì chỉ có nam giới. Chứng tỏ vẫn có sự khác nhau giữa nhận thức của cha và mẹ về việc giáo dục SKSS cho con cái. Bước đầu ta đã biết được rằng hầu hết các cha mẹ đều có sự quan tâm đến vấn đề SKSS của con cái. Bên cạnh đó, có một số ít cho rằng đây là việc bình thường. 2.1.2 Mức độ đánh giá của cha mẹ về việc giáo dục cho con cái về SKSS: Để đánh giá được nhận thức của cha mẹ trong việc giáo dục SKSS cho con cái, ta cần tìm hiểu cả mức độ dánh giá về sự cần thiết của giáo dục SKSS. Vì chỉ khi cha mẹ đánh giá đúng tầm quan trọng của việc giáo dục SKSS này thì họ sẽ có cách quan tâm, giáo dục khác nhau. Sự đánh giá này sẽ cho ta thấy rõ hơn những suy nghĩ của cha mẹ ở mỗi bậc thang khác nhau. Bảng 2: Tương quan giữa giới với mức độ đánh giá về sự cần thiết của việc giáo dục SKSS 0 20 40 60 80 Nam Nữ Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết Qua bảng số liệu trên ta thấy tỉ lệ nữ đánh giá việc rất cần thiết của việc giáo dục SKSS cho con là 67.2%, nam là 58.5% ít hơn nữ là 8.7%. Phụ nữ luôn đánh giá cao mức độ quan trọng và cần thiết của việc giáo dục hơn đàn ông. Nhưng so với chính nam giới với nhau thì tỷ lệ nam giới đánh giá việc giáo dục SKSS cho con là rất cần thiết lại chiếm một tỷ lệ cao, hơn 50% trong số họ đánh giá cao về việc giáo dục SKSS cho con mình. Còn đánh giá về sự cần thiết thì nam giới chiếm 24.4% (trong 100% nam giới) và nữ đánh chiếm 26.2% (trong 100% nữ giới). Điều này thể hiện nhận thức giữa hai bên nam và nữ về sự cần thiết trong giáo dục con cái về SKSS có sự cân xứng khá đồng đều. Đáng mừng là chỉ có một số ít người cho rằng việc giáo dục SKSS cho con mình là bình thường và rất ít người cho rằng không cần thiết. Vậy, nữ giới vẫn hiểu được tầm quan trọng trong việc giáo dục con cái về SKSS hơn nam giới. 2.1.3 Mức độ quan tâm của cha mẹ về việc giáo dục SKSS cho con cái Qua bảng 1 ở trên ta thấy các bậc cha mẹ đều nói rằng mình quan tâm, nhưng họ quan tâm với mức độ như thế nào là một điều ta cần bàn tới. Bởi vì mức độ quan tâm của cha mẹ sẽ ảnh hưởng đến nội dung, phương pháp mà họ giáo dục cho con cái họ. Mức độ quan tâm cũng thể hiện một phần nhận thức của cha mẹ được biểu hiện ra bằng hành động để giáo dục cho con cái họ. 0 20 40 60 80 Nam Nữ Bảng 3: Tương quan giữa giới và mức độ quan tâm giáo dục SKSS của cha mẹ Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi Không bao giờ Nam NữMức độ quan tâm Số người % Số người % Thường xuyên 10 25.6 29 47.6 Thỉnh thoảng 27 60.2 28 45.9 Ít khi 1 2.6 3 4.9 Không bao giờ 1 2.6 1 1.6 Tổng 39 100 61 100 Ở mức độ thường xuyên thì cha chiếm 25.6%, mẹ chiếm 47.6%. Ta thấy rằng nam giới cũng thường giáo dục con về SKSS nhưng vẫn ít hơn nữ giới. Nhưng ở mức độ tỉnh thoảng thì lại có sự tương đồng giữa nam và nữ (nam chiếm 60.2%, nữ chiếm 45.9%). Với mức độ thỉnh thoảng, chứng tỏ cha mẹ chỉ cảm thấy khi nào cần thiết hoặc tùy từng thời điểm thì cha mẹ mới giáo dục cho con về SKSS. Đó là do trong thời đại hiện nay, các bậc cha mẹ thường bạn rộn với công việc, Con cái thường phải học cả ngày ở trường nên ít có thời gian chia sẻ với con. Hơn nữa, đây cũng là một vấn đề mà cha mẹ quan tâm nhưng họ lại không muốn nói quá nhiều về SKSS, họ cho rằng con mình vẫn còn nhỏ để biết, một số gia đình cho rằng việc giáo dục về SKSS phải do nhà trường. Qua đó, ta thấy rằng hầu như cả cha và mẹ đều có giáo dục cho con về SKSS nhưng không thường xuyên. Do rất nhiều lí do như đã nêu trên. 2.1.4 Nhận thức
Luận văn liên quan