Đề tài Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành và vấn đề thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền ở Việt Nam theo Hiến pháp, đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trong 80 năm qua, với vai trò trung tâm của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đảng lãnh đạo sự nghiệp trên 20 năm đổi mới sau khi đất nước hòa bình, khi Việt Nam trở thành quốc gia hội nhập và phát triển, đời sống tinh thần và vật chất của người dân ngày càng được cải thiện. Chính vì thế, vai trò của Đảng trong mọi lĩnh vực là hết sức cần thiết và quan trọng. Xuất phát từ lí do này mà qua bài tập nhóm thứ nhất, chúng em xin phân tích vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, dù nhóm đã cố gắng hoàn thiện bài luận nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định, vì vậy chúng em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo. Chúng em xin chân thành cảm ơn.

doc13 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8432 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành và vấn đề thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền ở Việt Nam theo Hiến pháp, đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trong 80 năm qua, với vai trò trung tâm của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đảng lãnh đạo sự nghiệp trên 20 năm đổi mới sau khi đất nước hòa bình, khi Việt Nam trở thành quốc gia hội nhập và phát triển, đời sống tinh thần và vật chất của người dân ngày càng được cải thiện. Chính vì thế, vai trò của Đảng trong mọi lĩnh vực là hết sức cần thiết và quan trọng. Xuất phát từ lí do này mà qua bài tập nhóm thứ nhất, chúng em xin phân tích vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, dù nhóm đã cố gắng hoàn thiện bài luận nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định, vì vậy chúng em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo. Chúng em xin chân thành cảm ơn. Mục lục Vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành Trang 3 1. Nội dung lãnh đạo của Đảng Trang 3 Về hình thức lãnh đạo của Đảng Trang 5 Về phương pháp lãnh đạo của Đảng Trang 8 2. Những ưu nhược điểm trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng và phương hướng đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới Trang 9 Ý nghĩa của việc thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng trong pháp luật hiện hành Trang 11 Danh mục tài liệu tham khảo Trang 13 I. Vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị theo pháp luật hiện hành : Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ghi nhận trong rất nhiều các văn bản pháp luật của Nhà nước ta. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, vai trò này được thể chế hóa tập trung nhất, chủ yếu nhất và trang trọng nhất là trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước, đó là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Điều 4 Hiến pháp quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. 1. Nội dung lãnh đạo của Đảng : Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì hệ thống chính trị của nước ta bao gồm : Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định : dù trong hệ thống chính trị của nước ta có rất nhiều tổ chức, thiết chế chính trị, chính trị - xã hội song song cùng tồn tại và đều giữ những vị trí quan trọng nhất định trong đời sống chính trị của đất nước, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là thiết chế duy nhất giữ vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối đối với Nhà nước và các tổ chức khác nằm trong hệ thống chính trị (đây là một điểm rất khác so với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước tư bản với chế độ đa nguyên chính trị). Tính toàn diện thể hiện ở chỗ, mọi cá nhân, tổ chức,… trong xã hội đều nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoài ra, tính toàn diện còn thể hiện ở việc Đảng lãnh đạo trên hầu hết mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, tổ chức cán bộ,… Tính tuyệt đối thể hiện ở việc, Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị và là tổ chức duy nhất có quyền lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính trị. Các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội coi sự khẳng định này là biểu hiện của sự độc đoán, chuyên quyền của Đảng ta. Tuy nhiên, lịch sử dân tộc Việt Nam lại cho phép khẳng định chính thức bằng pháp luật vai trò lãnh đạo không thể phủ nhận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân bởi 3 cơ sở. Thứ nhất, Đảng là lực lượng xã hội tiên tiến nhất trong xã hội, được vũ trang bằng những quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin; thứ hai, bằng thực tiễn đấu tranh kiên cường, bằng những hi sinh, cống hiến lớn lao cho dân tộc của mình, Đảng đã chiếm được lòng tin của đại đa số quần chúng nhân dân; thứ ba, qua chặng đường 80 năm lịch sử của mình, Đảng đã tạo được uy tín quốc tế lớn cũng như tình đoàn kết và sự giúp đỡ từ phía phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Như vậy, 3 cơ sở này cho phép chúng ta khẳng định, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội hoàn toàn là một thực tế lịch sử mang tính quy luật. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ một điều rằng, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị không có nghĩa là Đảng đứng trên tất cả. Là một tổ chức hoạt động trong xã hội, là một đối tượng quản lý của Nhà nước, Đảng và các tổ chức, các đảng viên của mình cũng phải chịu sự tác động của pháp luật, bình đẳng với các bộ phận cấu thành khác của hệ thống chính trị. Trong hệ thống pháp luật của nước ta, điều này đã được thể hiện rất rõ trong rất nhiều các văn bản pháp lý của Nhà nước, ví dụ Điều 5 Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 quy định (hoặc Điều 6 Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng có quy định tương tự): “Tổ chức chính trị (trong đó bao gồm các tổ chức của Đảng), các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và theo Điều lệ của tổ chức mình phù hợp với quy định của pháp luật” ; hay tại Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định “Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị (trong đó bao gồm các tổ chức của Đảng), tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi người tôn trọng”,… và đặc biệt là trong Điều 4 Hiến pháp 1992 “mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Là một bộ phận của hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản luôn giữ vai trò lãnh đạo một cách toàn diện hệ thống chính trị, trong đó, sự lãnh đạo đối với Nhà nước là trực tiếp và chủ yếu nhất. Tuy nhiên, tính toàn diện ở đây đã khiến nhiều người lầm tưởng rằng Đảng quyết định tất cả, làm thay tất cả những công việc của các bộ phận cấu thành khác của hệ thống chính trị. Cách hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng không đúng này có thể dẫn tới sự bao biện, làm thay và cuối cùng là sẽ làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Trên thực tế, để thực hiện vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị của mình, Đảng có những hình thức và phương pháp đặc thù riêng. Cụ thể là : a) Về hình thức lãnh đạo của Đảng : - Thứ nhất, Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn để định hướng cho sự phát triển của toàn xã hội trong từng thời kỳ lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Đây được coi là hình thức lãnh đạo quan trọng nhất của Đảng ta vì đường lối, chính sách của Đảng, nhất là trong những giai đoạn mang tính bước ngoặt lịch sử luôn là yếu tố quyết định vận mệnh của đất nước. Ví dụ: chính nhờ chính sách Đổi mới được đề ra tại Đại hội VI năm 1986 mà Đảng ta đã đưa dân tộc và đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội trong những năm sau ngày thống nhất đất nước. Nhờ việc quyết định từ bỏ nền kinh tế quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa mà nền kinh tế đã có những bước tiến vượt bậc, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Ai cũng biết, 10 năm sau ngày thống nhất (năm 1975), đất nước ta rơi vào tình trạng thiếu lương thực một cách trầm trọng, việc ăn cơm đã được coi là chuyện “lạ”. Thế mà, ngay sau khi chuyển đổi nền kinh tế, nước ta không những đã khắc phục được tình trạng này mà còn trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Thành công này khẳng định hoạch định đường lối, chính sách luôn luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền. - Thứ hai, Đảng vạch ra những phương hướng và nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân. Cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, vì dân và do dân; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao. Nêu cao vị trí và vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. - Thứ ba, Đảng đề ra những quan điểm và chính sách về công tác cán bộ; phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng những Đảng viên ưu tú và những người ngoài Đảng có phẩm chất năng lực giới thiệu vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua cơ chế bầu cử, tuyển chọn. Việc giới thiệu cán bộ của Đảng vào các vị trí như vậy được tiến hành thông qua sự tín nhiệm của nhà nước, của quần chúng. Đảng không áp đặt các tổ chức, cơ quan nhà nước phải chấp nhận người mình giới thiệu. Đảng xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại, từng chức danh cán bộ ở các cấp, các ngành và căn cứ vào đó để đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ. Trong công tác cán bộ, Đảng luôn coi trọng hai mặt: bồi dưỡng, bố trí đúng để phát huy lực lượng cán bộ hiện có; kịp thời thay những cán bộ kém năng lực, xử lý những cán bộ tham nhũng, thoái hoá, những cán bộ có quan điểm và tư tưởng chính trị lệch lạc, vi phạm kỷ luật của Đảng. - Thứ tư, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình thông qua các đảng viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo dục Đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, qua đó tập hợp, giáo dục và động viên quần chúng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện đường lối chính sách của Đảng, tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân không ngừng đổi mới về tổ chức và hoạt động để góp phần thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các công việc quản lý nhà nước. Các đoàn thể có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên, phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho sự thành công của công cuộc đổi mới. Đồng thời, những hoạt động của các đoàn thể luôn hướng về cơ sở để phát triển tổ chức, củng cố sinh hoạt, xã hội hoá các hoạt động, đào tạo bồi dưỡng rèn luyện cán bộ, khắc phục bệnh quan liêu, hành chính trong hoạt động của các đoàn thể. - Thứ năm, Đảng thực hiện công tác kiểm tra việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng đối với các đảng viên, các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, phát hiện và uốn nắn kịp thời những sai lầm, lệch lạc. Đồng thời, Đảng tiến hành tổng kết thực tiễn rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung và hoàn thiện các đường lối, chính sách trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công tác kiểm tra của Đảng phải được tiến hành theo những nguyên tắc của tổ chức Đảng trên cơ sở tôn trọng quyền hạn và chức năng quản lí của Nhà nước. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của mình là một trong những hình thức lãnh đạo của Đảng. Thông qua kiểm tra, Đảng phát hiện ra những nhân tố mới, phát huy ưu điểm, ngăn ngừa và khắc phục khuyết điểm; bổ sung, phát triển hoặc điều chỉnh chủ trương, chính sách… của mình. Tuy nhiên, Đảng lãnh đạo không có nghĩa là Đảng đứng trên tất cả, trên thực tế, mọi hoạt động của Đảng đều dựa trên sự tôn trọng quyền hạn và chức năng của Nhà nước, bởi lẽ theo quy định tại Điều 4 hiến pháp 1992 thì “mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. b) Về phương pháp lãnh đạo của Đảng : Một nét đặc trưng trong vai trò lãnh đạo của Đảng là phương pháp lãnh đạo. Đảng là một tổ chức chính trị, khác với Nhà nước, phương pháp lãnh đạo của Đảng không phải là phương pháp hành chính mà là những phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và dựa vào năng lực, uy tín của đảng viên. Về thực chất, sự lãnh đạo đó là lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và hệ thống chính trị có thể chủ động sáng tạo trong hoạt động của mình. Sau đây, nhóm xin nêu ra 3 phương pháp lãnh đạo cơ bản nhất của Đảng : - Dân chủ, điều đó có nghĩa là không ngừng nâng cao trình độ dân trí, cung cấp thông tin... để dân tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý nhà nước, xây dựng chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua cơ quan đại diện cho dân đóng góp ý kiến vào các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, quyết định về các công việc trực tiếp của dân; Đảng quy chế hoá việc công khai, minh bạch các hoạt động của mình, của Nhà nước, để dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan công quyền, của đội ngũ cán bộ, công chức; chỉ ra cho Đảng những cán bộ có phẩm chất, đạo đức, có năng lực lãnh đạo, quản lý; lựa chọn và bầu cử những người thật sự là đại diện cho dân vào các cơ quan quản lý nhà nước. - Đảng lãnh đạo bằng công tác giáo dục, thuyết phục của các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo. Để làm được điều này, Đảng luôn tăng cường công tác giáo dục lý luận, công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng của các tổ chức đảng và nâng cao trình độ, khả năng làm công tác giáo dục của mỗi cán bộ, đảng viên, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên đều nắm vững đường lối, chính sách và biết tuyên truyền, vận động quần chúng. - Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước còn bằng sự hoạt động gương mẫu, có uy tín của những cán bộ, đảng viên có năng lực, hoạt động trong các cơ quan Nhà nước. Để có được điều này, Đảng luôn chăm lo nhiều tới việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là những đảng viên có chức, có quyền thật sự gương mẫu trong đạo đức, lối sống, trong công tác,… Đặc biệt, Đảng bắt buộc mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đây là một trong những nguyên tắc kỷ luật của Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng lãnh đạo Nhà nước thì mọi cán bộ, đảng viên của Đảng, bất kỳ công tác trên lĩnh vực nào, nếu muốn phát huy tác dụng lãnh đạo đều phải có những tri thức cần thiết về pháp luật, về tổ chức bộ máy Nhà nước; phải hiểu rõ các chủ trương, chính sách mà Nhà nước ban hành, có như vậy mới có thể góp sức cùng toàn Đảng lãnh đạo chính quyền. 2) Những ưu – nhược điểm trong việc thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng và phương hướng đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới : Trong những năm vừa qua Đảng đã có những bước đổi mới vô cùng quan trọng tạo tiền đề tốt cho việc phát huy sức mạnh quản lí của Nhà nước. Cụ thể đã xác định rõ hơn vai trò của mình trong việc lãnh đạo Nhà nước, tiếp tục đề cao hơn nữa nguyên tắc tôn trọng và đề cao vai trò của Nhà nước; Đảng tiếp tục phát huy mối quan hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời đã kết hợp được với sự tiến bộ của các phương tiện truyền thông hiện đại để nâng cao tinh thần dân chủ, công khai minh bạch trong các hoạt động đồng thời phát huy vai trò là người phản biện trong các chính sách của Đảng và Nhà nước của nhân dân. Quá trình xây dựng và ban hành Nghị quyết của Đảng đã được cải tiến (chú ý hơn đến công tác tham mưu, tư vấn, sử dụng chuyên gia, làm thí điểm), việc phổ biến nghị quyết cũng giảm bớt tính hình thức, tăng tính thiết thực, ngắn gọn, gắn với chương trình hành động,… Tuy có những bước tiến quan trọng trên đây, song, qua tổng kết 20 năm đổi mới, có 2 vấn đề về phương pháp lãnh đạo mà Đảng cần nghiên cứu rút kinh nghiệm. Thứ nhất, Đảng đôi khi vẫn còn bao biện, làm thay, lấn sân vào các hoạt động của cơ quan nhà nước và Quốc hội, như việc quyết định những vấn đề về dự án đầu tư, về đấu thầu, thậm chí đi sâu quản lý việc chi tiêu của các dự án,…; Thứ hai, hiện nay nhiều cấp ủy, tổ chức đảng còn buông lỏng quản lý. Cụ thể, Đảng còn thiếu các quy định cụ thể làm chuẩn mực cho tổ chức đảng và đảng viên thực hiện, không thực hiện việc kiểm tra, giám sát, xa rời nhân dân, không gần đảng viên,… Do đó đã không phát hiện hoặc chậm phát hiện các dấu hiệu vi phạm xảy ra. Để khắc phục những khuyết điểm này, Đảng ta đã chủ trương và kiên quyết tự đổi mới và chấn chỉnh, tiếp tục phát huy hơn nữa năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện để vươn lên ngang tầm đòi hỏi đối với trách nhiệm lãnh đạo đất nước trong thời gian tới. II. Ý nghĩa việc thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng trong pháp luật hiện hành : Việc thể chế hóa vị trí và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam vào hệ thống pháp luật của đất nước, đặc biệt là trong Hiến pháp _ văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước, có ý nghĩa hết sức to lớn. Về mặt chính trị, việc ghi nhận vai trò của Đảng đã khẳng định và thừa nhận công lao to lớn của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc ta. Qua đó thể hiện tình cảm trân trọng và lòng biết ơn của nhân dân ta đối với Đảng. Bên cạnh đó, việc ghi nhận công lao của Đảng cũng nhằm nâng cao uy tín của Đảng ở trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào. Điều này phản ánh quy luật khách quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang tiến hành. Theo đó, cuộc cách mạng muốn giành được thắng lợi thì phải tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản. Hơn nữa, việc ghi nhận vai trò của Đảng đã thừa nhận một thực tế lịch sử khách quan là Đảng đã và đang lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc và thực tế đó đã được pháp luật hóa. Về ý nghĩa pháp lý, thứ nhất, việc bảo vệ và xây dựng Đảng, cũng như thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng là trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của các tổ chức đảng, các đảng viên, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hôi, các lực lượng vũ trang nhân dân và mọi công dân. Thứ hai, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy Đảng thành pháp luật. Thứ ba, Đảng lãnh đạo là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc này thể hiện bản chất giai cấp của Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, các tổ chức Đảng và đảng viên phải thường xuyên chủ động trong việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ; gương mẫu thực hiện và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách đó. Thứ năm, các tổ chức Đảng và Đảng viên phải luôn tôn trọng, hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Thứ sáu, bảo đảm các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước và hệ thống pháp luật. Danh mục tài liệu tham khảo Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết số 22-NQ/TƯ "Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên". Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992;