Dưới góc độ tài chính thì đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ
đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu.
Dưới góc độ tiêu dùng thì đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để thu
được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Khái niệm chung: Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các
nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về
các kết quả có lợi trong tương lai.
43 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1940 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của đầu tư dưới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Vai trò của đầu tư
dưới sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở Việt Nam
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
1 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
I. Đầu tư.
1. Khái niệm về đầu tư dưới các góc độ khác nhau.
Dưới góc độ tài chính thì đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ
đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu.
Dưới góc độ tiêu dùng thì đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện tại để thu
được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Khái niệm chung: Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng các
nguồn lực khác ở hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về
các kết quả có lợi trong tương lai.
2. Vai trò của đầu tư.
2.1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế.
- Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học- công nghệ của đất
nước.
Công nghệ là trung tâm của CNH. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của
sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra
công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập
nó thì cũng cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ
không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
- Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chính đầu tư quyết định qua trình chuyển dịch kinh tế ở các quốc gia
nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh té.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối
về phát triển giữa các vùng lãng thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát
khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển
nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
- Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt
từ15- 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước:
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn từ 5- 7. ở các nước chậm phát
triển ICOR thấp từ2- 3. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản
chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư dủ để dạt được một
tỉ lệ tăng thêmsản phẩm quốc dân dự kiến.
Có sự khác nhau trên là vì chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
2 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các vùng lãnh thổ cũng như phụ
thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông htường ICOR
trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn
chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó ở các nước phát
triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường đãn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
2.2. Trên góc độ vi mô.
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở.
Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất
kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm
và lắp đặt máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và
thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của
các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt
động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau
một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao
mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến
hành sửa chữa lớn hoặc thay đổi các cơ sở vật chất - kỹ thuật và nhu cầu
tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay
thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
II. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Cơ cấu kinh tế
Phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững là mục tiêu phấn đấu của
tất cả các nước. Để thực hiện được mục tiêu đó cần thiết phải xây dựng 1 cơ
cấu kinh tế hợp lý. Trong đó cần phải xác vai trò, tỷ trọng và mối quan hệ
hợp thành giưã các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng, lãnh thổ và giữa
các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế phải được thể
hiện cả về mặt số lượng cũng như về mặt chất lượng và được xác định trong
những giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã
hội cụ thể của mỗi quốc gia qua từng thời kỳ.
Có thể hiểu cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành kết
cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng sản xuất xã
hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện
ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những
không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã
hội nhất định nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao.
Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh bất biến mà luôn ở
trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, cần phải nghiên
cứu các qui luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với
những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải có các bộ phận kết hợp một cách hài
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
3 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
hoà, cho phép khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước một cách có hiệu
quả, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển ổn định,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của người dân.
Nước ta trong thời gian tương đối dài, nền kinh tế tồn tại theo cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, sau 15
năm nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa to lớn.
Đại hội VI đảng ta chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát
triển 3 chương trình kinh tế lớn. Sản xuất lương thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu, chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng vào 3 chương trình
và thực hiện luật đầu tư nước ngoài. Đến Đại hội VII, VIII, IX khi công
cuộc đổi mới bắt đầu đi vào chiều sâu, đảng ta tiếp tục khẳng định xây dựng
cơ cấu kinh tế hợ lý là một nội dung quan trọng của CNH – HĐH, phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa xã
hội.
2. Phân loại cơ cấu kinh tế
2.1. Cơ cấu kinh tế ngành.
- Ngành nông nghiệp: Là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá trình
sinh học gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Do sự phát triển của
phân công lao động xã hội, các ngành này hình thành và phát triển tương
đối độc lập, nhưng lại gắn bó mật thiết với nhau.
Nông nghiệp là một ngành cơ bản của nền kinh tế cả nước, vừa chịu sự
chi phối chung của nền kinh tế quốc dân, vừa gắn bó mật thiết với các
ngành khác trên địa bàn nông thôn, đồng thời lại phản ánh những nét riêng
biệt mang tính đặc thù của 1 ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể
sống.
Theo nghĩa hẹp: nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi, theo
nghĩa rộng thì nông nghiệp còn bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản.
- Ngành công nghiệp: Là một ngành quan trọng của nền kinh tế bao
gồm ngành công nghiệp nhẹ: Chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da –
giầy, điện tử – tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng.
Công nghiệp nặng: Dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ
bản, phân bón, vật liệu xây dựng….
- Ngành dịch vụ: Đây là một ngành kinh tế ra đời và phát triển gắn
liền với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Dịch vụ bao gồm rất nhiều
loại: Thương mại, dịch vụ vận tải hàng hoá, hành khách, dịch vụ bưu
chính – viễn thông, dịch vụ tài chính tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm
toán, chứng khoán…dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ đời
sống. Đối với Việt Nam hiện nay, du lịch đang thực sự trở thành 1 ngành
kinh tế mũi nhọn.
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
4 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
2.2. Cơ cấu kinh tế vùng – lãnh thổ.
Trong từng Quốc gia do những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác
nhau nên trong quá trình phát triển đã hình thành các vùng kinh tế sinh thái
khác nhau.
Cơ cấu vùng – lãnh thổ kinh tế là sự phân công lao động xã hội theo
lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Cơ cấu vùng – lãnh thổ được coi là nhân tố
hàng đầu để tăng trưởng và phát triển bền vững các ngành kinh tế được
phân bố ở vùng. Việc xác lập cơ cấu kinh tế vùng – Lãnh thổ 1 cách hợp lý
nhằm phân bố trí các ngành sản xuất trên vùng – lãnh thổ sao cho thích hợp
để triển khai có hiệu quả mọi tiềm năng và lợi thế của từng vùng. Việc bố
trí sản xuất ở mỗi vùng không khép kín mà có sự liên kết với các vùng khác
có liên quan để gắn với cơ cấu kinh tế của cả nước: ở nước ta có thể chia ra
các vùng kinh tế như sau:
- Trung du và miền núi bắc bộ
- Tây Nguyên
- Đồng bằng sông cửu long
- Vùng KTTĐ Bắc bộ
- Vùng KTTĐ Miền trung
- Vùng KTTĐ Phía Nam
2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế (gồm có):
- Kinh tế nhà nước: Phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Kinh tế tập thể: Phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng,
trong đó hợp tác xã là nòng cốt.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan
trọng lâu dài.
- Kinh tế tư nhân.
- Kinh tế hỗn hợp: Dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh
tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là một bộ phận của nền kinh tế
Việt Nam được khuyến khích phát triển, hướng mạch vào sản xuất, kinh
doanh hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng.
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
3.1 Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Từ khi đổi mới đến nay cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực
nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ và nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng lớn, các ngành nghề chưa được phát triển. Nhìn chung cơ
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
5 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
cấu kinh tế ở nước ta còn bất hợp lý, dẫn tới sản xuất đạt hiệu quả thấp,
chưa khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước. Do đó chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là một tất yếu cần thiết để phát triển đất nước.
3.2 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế ngành:
Có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy
nhanh CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn tiếp tục phát triển và đưa
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ nhất là công nghệ sinh học.
Công nghiệp: Vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi
nhanh vào một số ngành lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc….Xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư
liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng,
khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương
mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính – viễn
thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm….
- Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ:
Phát huy vai trò của vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao,
tích luỹ lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát
huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng
trưởng khá,. Quan tâm phát triển kinh tế- xã hội gắn với tăng cường quốc
phòng- an ninh ở các vùng miền núi, đồng bào các dân tộc thiểu số, biên
giới, hải đảo chú trọng các vùng tây nguyên, tây bắc, tây nam. Có chính
sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn để phát triển cơ cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo, đưa các vùng này
vượt qua tình trạng kém phát triển.
- Cơ cấu thành phần kinh tế.
Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn
hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế khác nhau, giữa
trong nước và nước ngoài. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ
phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
III VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Vai trò của đầu tư trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành
Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tổ hợp các ngành, hợp thành các
tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền kinh tế
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
6 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
quốc dân.
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích,
có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực
tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ
cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn
Chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm cốt tử, một nọi dung
cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu xác định
phương hướng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế
xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại sẽ phải trả giá đắt cho những sự
phát triển về sau .
Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại
phụ thuộc rất nhiều vào khâu quyết định chủ trương chuyển dịch và tổ chức
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, nhà nước có vai trò
quyết định trong việc hoạch định chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô,
còn các doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực thi phương hướng,
nhiệm vụ chuyển dịch.
Một nền kinh tế quốc dân bao gồm nhiều ngành sản xuất khác nhau.
Do đó, 1 quốc gia muốn phát triển và đạt được tốc độ tăng trưởng cao phả
có 1 cơ cấu ngành hợp lý. Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu CNH –
HĐH đất nước, phấn đầu năm 2010 cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp thì
điều này lại càng có ý nghĩa. Chính vì vậy, việc đầu tư vào chuyển dịch cơ
cấu ngành, tạo sức bật cho nền kinh tế đóng 1 vai trò hết sức quan trọng.
Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ 1: Đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của
các ngành: Đây là 1 hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng
nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập
trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào chính sách và chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách và chiến lược, nhà nước
có thể tăng cường khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư đối với các ngành cho
phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Dẫn đến sự tăng đầu tư vào 1 ngành
sẽ kéo theo sự tanưg trưởng kinh tế của ngành đó và thúc đẩy sự phát triển
của các ngành, các khu vực có liên quan. Vì vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng
kinh tế chung của đất nước. Việc xác định nên tập trung đầu tư vào ngành
nào có tính chất quyết định sự phát triển của quốc gia. Nhưng kinh nghiệm
của các nước trên thế giới đã cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng
nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
7 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Do đó, để thực hiện được các mục tiêu
đã định, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài sự phát triển.
Thứ 2: Như đã nói ở trên, đầu tư đã làm thay đổi tỷ trọng của các
ngành trong cả nền kinh tế. Sự thay đổi này lại đi liền với sự thay đổi cơ
cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự phân hoá cơ cấu sản
xuất trong mỗi ngành kinh tế là do có tác động của đầu tư. Sự phân hoá này
cũng là một tất yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành. Trong từng
ngành, đầu tư lại hướng vào các ngành có điều kiện thuận lợi để phát triển,
phát huy được lợi thế của ngành đó và làm điểm tựa cho các ngành khác
cùng phát triển.
Thứ 3: Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành
cũng được tăng cường. Mọi việc như mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm,
mua sắm máy móc ….Suy cho cùng đều cần đến vốn, 1 ngành muốn tiêu
thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải luôn đầu tư nâng cao chất lượng
sản phẩm đa dạng hoá mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo các chức
năng, công dụng mới cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư để nâng cao hàm
lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm là 1 điều kiện không thể thiếu
được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị trường, nhờ vậy mà nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
2. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng –
lãnh thổ.
2.1. Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ.
Một số vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu tư vào sẽ có thể có nhiều
cơ hội để sản xuất kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng kinh tế của mình.
Tác động này của đầu tư có thể xem xét trên 2 khía cạnh như sau:
Thứ nhất là: Đầu tư giúp các vùng – lãnh thổ phát huy được tiềm
năng, thế mạnh kinh tế của vùng.
Với nhưng vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh
thổ sẽ có những thế mạnh kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì
không chỉ dựa vào những tài nguyên vị trí địa lý sẵn có đó, mà phải có đủ
điều kiện để khai thác và sự dụng nó có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có
nguồn vốn đầu tư. Vì khi được dầu tư thích đáng các vùng sẽ có điều kiện
để xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các
phương hướng phát triển đúng đắn để tận dụng, phát huy sức mạnh của
vùng. Như một số vùng miền núi có địa hình đồii núi cao ( Sơn La – Hoà
Bình ) trước khi được đầu tư vùng không có công trình nào lớn mạnh thực
Vai trß cña ®Çu t tíi sù chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ ë ViÖt Nam
8 §¹i häc kinh tÕ quèc d©n NguyÔn Thu thñy
sự, nhưng nhờ đầu tư khai thác thế mạnh sông núi của vùng nhà máy thuỷ
điện đã được xây dựng, góp phần làm phát triển nền kinh tế của vùng.
Thứ hai là: Đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của
các vùng – lãnh thổ được đầu tư.
Như phân tích trên đầu tư giúp các vùng tận dụng được thế mạnh của
mình, tạo đà cho sự phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế phát triển
hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng sẽ cao hơn so với trước kia.
GDP % 1990 1995 1999
ĐB sông Hồng 18,6 20,5 20,3
Đông nam bộ 24,6 31,5 32,3
Như vậy đầu tư tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng
nào có sự đầu tư nhiều hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả
năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế của vùng cao hơn các vùng – lãnh thổ ít được đầu tư khác.
2.2. Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư.
Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ
góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhờ có nguồn vốn đầu
tư mà các vùng mới có điều kiện để xây dựng các nhà máy, cơ sở hạ tầng
trên lãnh thổ của vùng. Ngay khi những công trình của dự án đầu tư mới
đang được xây dựng thì đã là cơ hội tạo việc làm cho nhiều người dân của
vùng, thu hút lao động nhàn rỗi của vùng. Cho đến khi các cơ sở đó đi vào
hoạt động cũng đã thu hút được nhiều lao động trong vùng. Như hàng loạt
các nhà máy đường, xi măng được đầu tư xây dựng đã thu hút công nhân
lao động trong vùng vào làm, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho khu
vực đó.
Đầu tư giúp nâng cao thu nhập của dân cư, giúp xoá đói giảm nghèo,
người dân từ chỗ bế tắc, thất nghiệp, sau khi có nguồn vốn đầu tư thu hút
lao động, tạo việc làm, người dân có thể có thu nhập cao hơn, ổn định cuộc
sống, phát huy năng lực của mình.
Có thể phân tích qua ví dụ cụ thể sau: ở huyện Thạch Thành – Thanh
Hoá Trước khi có nhà máy đường liên doanh Đài Loan – Việt Nam, người
dân trồng mía chỉ để bán lẻ hoặc bán với giá quá rẻ, nhiều người dân không
có việc