Đề tài Vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Bước vào thế kỷ XXI, trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kỹ thuật, văn hoá, giáo dục-đào tạo, môi trường đều có những biến đổi sâu sắc. Cùng với sự xuất hiện các cơ hội phát triển mới, nguy cơ tụt hậu về kinh tế, khoa học và công nghệ thông tin sẽ là những thách thức lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Nhờ vận dụng nhanh chóng những thành tựu mới của khoa học công nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả làn sóng đối với công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học Cục diện hiện nay của nhiều khu vực và nhiều nước trên thế giới đã có sự thay đổi về căn bản trên quy mô toàn cầu, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhiều nước đang tiến nhanh vào kỷ nguyên thông tin, trong đó cơ cấu sản xuất và nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa vào việc nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ. Khoa học-công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt các cơ hội phát triển mới, rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới và làm biến đổi nền sản xuất, điều này kéo theo sự thay đổi lớn trong các lĩnh vực kinh doanh cũng như trong quản lý của mỗi một đơn vị doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học công nghệ cũng làm cho quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và các quốc gia trở nên khốc liệt. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý kinh tế phải có những chính sách phù hợp để phát triển nền sản xuất kinh doanh và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá phát triển mạnh.

docx37 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3740 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Bước vào thế kỷ XXI, trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, kỹ thuật, văn hoá, giáo dục-đào tạo, môi trường … đều có những biến đổi sâu sắc. Cùng với sự xuất hiện các cơ hội phát triển mới, nguy cơ tụt hậu về kinh tế, khoa học và công nghệ thông tin … sẽ là những thách thức lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Nhờ vận dụng nhanh chóng những thành tựu mới của khoa học công nghệ, cũng như tận dụng có hiệu quả làn sóng đối với công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học … Cục diện hiện nay của nhiều khu vực và nhiều nước trên thế giới đã có sự thay đổi về căn bản trên quy mô toàn cầu, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhiều nước đang tiến nhanh vào kỷ nguyên thông tin, trong đó cơ cấu sản xuất và nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa vào việc nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ. Khoa học-công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt các cơ hội phát triển mới, rút ngắn khoảng cách giữa các quốc gia, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới và làm biến đổi nền sản xuất, điều này kéo theo sự thay đổi lớn trong các lĩnh vực kinh doanh cũng như trong quản lý của mỗi một đơn vị doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học công nghệ cũng làm cho quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và các quốc gia trở nên khốc liệt. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý kinh tế phải có những chính sách phù hợp để phát triển nền sản xuất kinh doanh và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá phát triển mạnh. Là một sinh viên chuyên ngành về quản lý, em rất tâm đắc với đề tài: “Vai trò của khoa học công nghệ trong tiến trình CNH-HĐH ở việt nam”. Nhưng do kiến thức và kinh nghiệm còn ít, sự nghiên cứu về đề tài còn nhiều thiếu sót, kính mong các giảng viên giúp đỡ và sửa chữa những thiếu sót hộ em để sau này em có thể nghiên cứu được những đề tài khác tốt hơn. I.NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHỆ: 1.Công nghệ là gì ? Công nghệ luôn được hiểu theo một nghĩa rộng là sự ứng dụng các trí thức khoa học vào giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn. Như vậy công nghệ là một sản phẩm do con người tạo ra làm công cụ để sản xuất ra của cải vật chất. Cho tới này định nghĩa về công nghệ chưa toàn diện thống nhất, điều này được lý giải là do số lượng các công nghệ có nhiều đến mức không thể thống kê được. Người sử dụng công nghệ trong những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau dẫn đến sự hiểu biết về công nghệ cũng khác nhau. +Theo UNIDO (United Nation’s Industrial Development organization) tổ chức phát triển công nghệ của liên hợp quốc thì : công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và sử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. +Theo ESCAP (Economic and Social Commission for asia and the Pacific) uỷ ban kinh tế và xã hội châu á Thái Bình Dương thì : công nghệ là một hệ thống kiến thức về quy trình kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Sau đó ESCAP mở rộng định nghĩa của mình: Nó bao gồm tất cả các kỹ năng kiến thức thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin. Định nghĩa này được coi là bước ngặt trong lịch sử quan niệm về công nghệ. Định nghĩa này không coi công nghệ phải gắn chặt với quá trình sản xuất chế tạo ra các sản phẩm cụ thể mà mở rộng khái niệm ra các lĩnh vực mới như dịch vụ và quản lý. +Cuối cùng một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ : công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra. 2.Các bộ phận cấu thành của công nghệ. Công nghệ là phương tiện để giải quyết các mục tiêu kinh tế nên thước đo của hoạt động công nghệ là phần tăng trưởng kinh tế, góp phần vào việc nâng cao năng suất lao động, thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội. Công nghệ phụ thuộc vào môi trường kinh tế, môi trường xã hội trong thực tế. Yêu cầu chất lượng, xu thế phát triển của thị trường, sản phẩm là nhân tố hạn chế sự lựa chọn. Đồng thời lựa chọn công nghệ lại bị ràng buộc bởi quan hệ buôn bán trong nước và quốc tế, do đó vấn đề áp dụng công nghệ vào quá trình phát triển kinh tế giải quyết một mục tiêu cụ thề là một tập hợp các vấn đề cần tính toán và đồng bộ. Bất cứ một công nghệ nào, dù công nghệ đơn giản hay công nghệ phức tạp thì cũng đều được cấu thành từ 4 yếu tố cơ bản, bốn thành phần đó tác động qua lại lẫn nhau và hợp thành một chính thể khoa học. +Con người- đội ngũ lao động kỹ thuật vận hành điều khiển và quản lý có kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm (Human ware - Viết tắt là H) +Thiết bị máy móc, dụng cụ, phụ tùng. Đây là phần vật chất, phần cứng của công nghệ được gọi là kỹ thuật (Techro ware - viết tắt là T) +Thông tin dữ liệu, dữ kiện, thuyết minh kỹ thuật, đặc trưng kỹ thuật, tài liệu hướng dẫn (Inforware- viết tắt là I) +Quản lý là chỉ các hoạt động giữ mối liên kết trong phân bổ các nguồn lực, thiết kế và thực thi các chính sách quản lý sản xuất và kinh doanh. Có thể gọi đây là phần tổ chức của công nghệ (Orga ware - viết tắt là O) Vậy trong 4 bộ phận cấu thành cơ bản đó thì con người đóng vai trò chủ đạo trong quá trình vận hành và biến đổi công nghệ. Nhờ đó sử dụng tốt hơn các nguồn lực, thiết bị là cốt lõi. Nhưng thiết bị lại do con người lắp đặt và vận hành: thông tin là sự tích luỹ kiến thức. Khối lượng kiến thức càng tăng càng đỏi hỏi công tác quản lý thông tin ngày càng cao; tổ chức là quá trình điều phối thông tin. Nhận xét tổng thể lại, con người, thiết bị cùng với vật tư tạo thành các nguồn lực cho sản xuất và kinh doanh, hay nói một cách khác công nghệ được phân thành : -Phần cứng là sản phẩm tồn tại ở dạng vật chất. -Phần mềm là sản phẩm của trí tuệ, các bí quyết thông số, phương pháp… 3.Các thuộc tính của công nghệ : Công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt, tuy nhiên với tư cách là một hệ thống công cụ chế biến vật chất và chế biến thông tin, hàng hoá công nghệ có những thuộc tính riêng. Các thuộc tính này quy định và ảnh hưởng trực tiếp đến việc mua bán định giá, trao đổi, sử dụng công nghệ. Công nghệ bao gồm 4 thuộc tính cơ bản : -Tính hệ thống -Tính sinh thể -Tính đặc thù -Và tính thông tin Cũng như 4 bộ phận cấu thành một công nghệ, 4 thuộc tính cơ bản này cũng có thể được xem là 4 tiêu thức cơ bản để mọi người có thể nhìn nhận một công nghệ. II.SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHỆ. Con người là chủ thể của sản xuất và là yếu tố quyết định. Song sự phát triển của con người về tri thức và kỹ năng sản xuất thì lại biểu hiện hay kết tinh ở tư liệu lao động. Việc sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động tuy đã có mầm mống ở một vài loài động vật nào đó. Nhưng vẫn là một nét đặc trưng riêng của quá trình lao động của con người. Đối với việc đánh giá những hình thái kinh tế xã hội cũng như đánh giá sự phát triển của tiến bộ khoa học loài người thì chúng ta nên đánh giá từ những mốc lịch sử khám phá sơ khai của loài người. 1.Sự phát triển chung của công nghệ : Những thời đại Kinh tế khác nhau không phải là chúng sản xuất ra cái gì mà là chúng sản xuất bằng cách nào. Với những tư liệu lao động gì và khám phá được gì cho nền sản xuất kinh doanh. Như vậy sự phát triển của kỹ thuật công nghệ có thể được biết tới qua những mốc lịch sử lớn sau đây: +Thứ nhất: những công cụ nguyên thuỷ: hòn đá, cây gậy nhọn, cung tên và những tư liệu lao động khác như ngọn lửa, một số động vật được thuần dưỡng … Đây có thể xem như là sự khám phá tìm tòi. Nghiên cứu cùng như là những phát minh của con người ở thủa còn sơ khai. +Thứ hai: thời đại đồ đá, đây là một giai đoạn phát triển khá dài và được phân rõ thành 2 giai đoạn: -Thời đại đồ đá cũ -Thời đại đồ đá mới +Thứ ba: thời đại đồ đồng +Thứ tư: thời đại đồ sắt +Thứ năm: thời đại cơ khí hoá. Mở đầu bằng cuộc công nghệ công nghiệp cuối thế kỷ 18 và được phát triển mạnh hơn cao hơn với việc ứng dụng rộng rãi của điện khí hoá từ đầu thế kỷ 19. Cuộc CM khoa học-kỹ thuật hay còn gọi là cuộc CM khoa học - công nghệ. Khởi đầu từ những thập niên 50 của thế kỷ 20 với tên gọi này người ta muốn nhấn mạnh đến sự kết nối trực tiếp từ những phát minh khoa học đến những ứng dụng vào kỹ thuật công nghệ. Nếu trước đây từ những phát minh khoa học đến những ứng dụng vào kỹ thuật công nghệ thường phải mất một thời gian khá dài, có khi cả trăm năm, nghìn năm, thì ngày nay khoảng cách đó được rút ngắn đi rất nhiều. Vào thời đại của C.Mác đã sớm nhận thấy xu hướng ấy khi đưa ra nhận định : “Khoa học ngày trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” Ở Châu Âu, sau đêm dài trung cổ, nhiều ngành khoa học đã có bước phát triển nhảy vọt trong 2 thế kỷ 17 và 18. Khởi đầu là toán học, thiên văn học, vật lý học, hoá học, với những nhà bác học điển hình như : -Galia (1564- 1642) là nhà thiên văn học người Italia. Người đầu tiên dùng kính viễn vọng quan sát mặt trời, mặt trăng và các hành tinh. Ông nổi tiếng về công lao chứng minh thuyết vũ trụ của Copernic, phát minh ra luật quán tính, luật rơi tự do… -Niwton (1642- 1727) nhà khoa học người Anh, ông là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học, cơ học, phát minh ra định luật vạn vật hấp dẫn. Các quy luật của cơ học cổ điển … kể từ đây, mở ra thời kỳ mới- thời đại cơ giới hoá. -Leonard de Vinci- danh hoạ vĩ đại. Ông đã vẽ các kiểu máy tiện, máy bơm, vũ khí, máy bay, nghiên cứu địa chất. -Copernic (1473-1543)-người Ba Lan, phát hiện ra mặt trời là trung tâm vũ trụ. -Lavoisier (1743-1794) nhà khoa học người Pháp phát hiện thành phần hoá học của nước và cấu tạo nguyên tố hoá chất. Cuộc cách mạng khoa học đã mở đường cho một cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ lớn nhất trong lịch sử loài người vào cuối thế kỷ 18 mà nội dung là chế tạo ra máy móc, cơ khí hoá nền sản xuất xã hội chuyển từ lao động thủ công sang lao động bằng máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật – công nghệ được gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lớn nhất của nhân loại. Bởi nó đưa máy móc vào công nghiệp thay thế thủ công bằng cơ khí hoá và dùng máy móc để sản xuất ra maý móc như một quy luật quan trọng của C.Mác đã phát hiện của sản xuất đại công nghiệp nhằm cơ khí hoá tiếp các ngành sản xuất khác như vận tải, nông nghiệp… Cuộc cách mạng công nghệ diễn ra đầu tiên ở Anh (trong khoảng thời gian 1750-1830) rồi sau đó lan rộng sang Pháp, Đức và một số nước Châu Âu cụ thể là: -Máy kéo Sợi (1735) và tiếp sau là máy dệt. -Máy hơi nước (1784) và tiếp sau đó là ôtô chạy bằng hơi nước (1789). -Đầu tàu hoả chạy bằng hơi nước (1803) -Tàu biển chạy bằng hơi nước (1851) -Động cơ đốt trong (1860) và tiếp sau là ôtô chạy bằng động cơ đốt trong (1886). -Điện tín (1843), liên lạc điện thoại (1875), trạm điện thoại (1878) -Đèn điện (1878) -Từ đầu thế kỷ XX, điện được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và vào nhiều ngành kỹ thuật cơ khí hoá được phát triển và nâng cao nhờ Điện khí hoá. Tất cả những thành tựu về công nghệ đã dẫn đến kết quả làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng cao. Nhờ đó mà loài người chuyển từ phương thức sản xuất này lên phương thức sản xuất khác cao hơn, chuyển từ nền văn minh này lên nền văn minh khác tiên tiến hơn. Cuộc cách mạng công nghệ diễn ra nửa thế kỷ nay cũng đang gây ra những biến đổi sâu sắc trong các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội, sản xuất tự động hoá ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, sản phẩm dồi dào. Tỷ lệ lao động trí óc trong sản xuất tăng lên trong khi tỉ lệ lao động chân tay giảm xuống, nảy sinh nạn thất nghiệp cơ cấu. Hợp chất mới sáng tạo ra thay thế một số vật lực có sẵn trong thiên nhiên, tiết kiệm tài nguyên, thiên nhiên, con người qua hạn hẹp mà thiên hiên đã ban tặng cho họ. Xuất hiện một số ngành sản xuất mới trong khi một số ngành sản xuất cũ suy thoái. Khoảng cách giữa những nước tiên tiến vốn có ưu thế về kỹ thuật-công nghệ và phần lớn những Nước lạc hậu ngày càng doãng ra, lợi thế của một số nước giàu tài nguyên thiên nhiên, giàu lao động giảm xuống. Xu thế toàn cấu hoá nền kinh tế với sự kiên doanh kiên kết, đầu tư, chuyển giao công nghệ ngày càng phát triển mạnh. Ngày nay vị thế của công nghệ-kỹ thuật tế đã có vị trí xứng đáng trong quỹ đạo của nền sản xuất-xã hội và nó cũng được xem như một chiến lược phát triển lâu dài của mỗi một quốc gia. 2.Công nghệ điển hình: *Công nghệ vật liệu mới Trong vòng 40 năm trở lại đây, khoa học và công nghệ đã tạo ra được các loại vật liệu đáp ứng được tất cả các yêu cầu trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Trong nhiều trường hợp phát minh vật liệu mới, làm nảy sinh ngành công nghiệp mới (bán dẫn-vi mạch, máy tính điện tử, tin học, thông tin…) một vài thành tựu nổi bật về công nghệ vật liệu mới là: -Vật liệu siêu dẫn -Vật liệu composit ( vật liệu tổ hợp hay phức hợp) -Gốm kim loại. Vật liệu mới là đặc trưng quan trọng đánh dấu sự phát triển của công nghệ (kỷ nguyên phát triển nhân loại đánh dấu bằng đồ đá, đồ đông, thép tổng hợp, phức hợp) Một công nghệ mới, cao cấp cần có các thiết bị làm bằng các vật liệu đặc biệt (nhẹ, cách âm, cách nhiệt…) ngược lại muốn có các vật liệu đăc biệt lại đòi hỏi công nghệ cao cấp về cơ khí chính xác, chân không siêu sạch… *Công nghệ Điện tử và vi điện tử Trong rất nhiều lĩnh vực khoa học-kinh tế, người ta phải dùng đến các thiết bị điện tử để thực hiện các chức năng như khuyếch đại, phát tín hiệu điện, biến đổi tín hiệu điện. -Tạo hình, tạo âm thanh… lúc đầu, linh kiện chính trong các thiết bị đó là đèn điện tử, được phát minh vào năm 1906, năm 1947 xuất hiện các linh kiện bán dẫn, năm 1961 xuất hiện mạnh tích hợp IC và năm 1971 là các mạch vi sử lý thường phát minh các dụng cụ điển tử mở ra kỷ nguyên của máy tính điện tử. *Công nghệ thông tin Thành quả của công nghệ Điện tử-Vi điện tử tạo ra máy tính điện tử cùng với phần mềm là các chương trình ứng dụng, tạo ra một công nghệ mới là tin học (informaties). Cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX xuất hiện kỹ thuật số (digital) tạo bước ngoặt trong lĩnh vực truyền tin, do các ưu việt: -Độ tin cậy cao -Số lượng truyền lớn. -Tốc độ trao đổi nhanh. Kỹ thuật số kết hợp với vật liệu quang truyền dẫn thông tin bằng Laze trong cáp quang. Tin học cùng viễn thông tạo ra ngành công nghiệp mới, công nghệ thông tin qua các hoạt động lưu trữ và truyền số liệu điện tử (EDI) dẫn đến các hoạt động như vay vốn chuyển vốn ngoại tệ, mua bán cổ phần, tìm chênh lệch giá tín dụng, chứng khoán… Tạo ra một xã hội hoàn toàn mới trong thế kỷ XXI. *Công nghệ sinh học Công nghệ sinh học sử dụng các tác nhân sinh vật vào quá trình sản xuất, có đặc trưng công nghiệp, sản xuất tư liệu sản xuất cho nó và các nành khác, có quy mô sản xuất là tế bào trong lĩnh vực này có 4 khía cạnh cụ thể: -Công nghệ Vi sinh -Kỹ thuật enzim -Kỹ thuật nuôi cấy tế bào *Công nghệ tự động hoá Tự động hoá là một quá trình trong sự phát triển sản xuất mà các chức năng điều khiển và kiểm tra do máy móc và thiết bị tự động điều khiển, nhờ tự động hoá quá trình sản xuất mà chất lượng sản phẩm hoàn hảo, năng suất lao động cao và tránh được các nguy hiểm đối với con người. Sự ra đời của máy tính điện tử đã làm thay đổi về chất của tự động hoá và mở rộng nó ra không chỉ trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà cả trong thông tin, dịch vụ và quản lý, đưa các lĩnh vực này trở thành các ngành công nghệ mũi nhọn trên phạm vi toàn thế giới. Trong lĩnh vực sản xuất, các thành tựu của tự động hoá bao trùm lên tất cả các ngành sản xuất, là cơ sở của các thành tựu trong lĩnh vực kỹ thuật cao: Du hành vũ trụ thông tin, năng lượng mới, kỹ thuật hai dương, công nghệ sinh học… thiết bị chủ yếu trong tự động hoá là Người máy các loại, có thể hoạt động theo một chương trình cứng, hay thao tác theo sự điều khiển trực tiếp của con người hoặc hoạt động nhờ trí năng nhân tạo. Sự phát triển của tự động hoá và Công nghệ thông tin hứa hẹn những thành tựu cho những bước ngoặt trong xã hội loài người ở thế kỷ XXI. 3. Vai trò của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. Khoa học công nghệ là một trong bốn nguồn lực quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Ngày nay, khi mà nhân loại bước vào kỷ nguyên tri thức thì khoa học công nghệ càng khẳng định hơn vai trò quyết định đến quá trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong quá trình tiến hành CNH- HĐH, nó chính là động lực lớn thúc đẩy và góp phần tích cực rút ngắn quá trình này. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, việc tìm ra những công nghệ mới, vật liệu mới và những nguồn năng lượng mới đã xuất hiện một kiểu tăng trưởng mới về chất- tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu trong điều kiện sản xuất phát triển dựa trên cơ sở cuộc cách mạng khoa học hiện đại. Khoa học công nghệ là điều kiện để có sản phẩm cuối cùng đạt chất lượng cao,tăng năng suất lao động, đảm bảo an toàn sản xuất, chống ỗ nhiễm môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên quốc gia, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của xã hội. Qua nghiên cứu vai trò cụ thể của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế, nhà kinh tế học P.A. Samuelson và W.P.Nordhaus đã dùng các phân tích của mình để tính toán phần đóng góp của khoa học công nghệ trong tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ từ 1900 đến 1984 và đã rút ra kết luận: Trong mức tăng trưởng 2,2%/năm về sản lượng theo đầu công nhân, khoảng 0,5% là do tăng yếu tố tư bản(vốn), và do yếu tố công nghệ là 1,7%. Như vậy, nhân tố khoa học công nghệ giữ một vai trò đặc biệt đối với tăng trưởng kinh tế. Cũng theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học S.A.Samuelson và W.P.Nordhaus, cho thấy: Từ năm 1981 ở Mỹ với mức tăng trưởng trung bình là 3,2%/năm thì sự đóng góp của yếu tố đầu vào: đất đai, vốn, lao động chỉ chiếm 1,1%, còn yếu tố giáo dục và khoa học công nghệ chiếm tới 2,1%. (Bảng1.1) Bảng 1.1. Đóng góp của các yếu tố vào mức tăng trưởng GDP thực tế Yếu tố đóng góp  Tăng % hàng năm  % của tổng số   GDP thực tế  3,2  100   Đóng góp đầu vào -Vốn -Lao động -Đất đai  1,1 0,5 0,6 0  34 15 19 0   Giáo dục và tiến bộ khoa học công nghệ  2,1  66   Nguồn: P.A.Samuelson và W.P.Nordhaus. Kinh tế học tập II-Học viện Quan hệ Quốc tế- Hà Nội 1989 Điều đó chứng tỏ vai trò quan trọng của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế quốc gia. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay đã tạo ra thời cơ rất thuận lợi để các nước đang phát triển nhanh chóng thực hiện Công nghiệp hoá đất nước. Nhiều nhà kinh tế cũng dự báo rằng, trong giai đoạn tới “tương lai sẽ phụ thuộc vào các quốc gia có tiềm năng ứng dụng”. Vì vậy, để nhanh chóng rút ngắn thời gian Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, các nước đang phát triển phải quan tâm và khai thác tốt những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, phát huy được lợi thế là các nước đi sau. Thực tế lịch sử cho thấy, nước Anh cần 120 năm để Công nghiệp hoá, Mỹ và Tây Âu cần 60 năm, còn các con rồng Châu Á chỉ mất 30 năm là hoàn thành. Trong tương lai sẽ hứa hẹn thời gian hoàn thành Công nghiệp hoá tiếp tục rút ngắn. Cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi chiến lược kinh tế và chiến lược thị trường. Sự xuất hiện của các ngành công nghệ cao đưa đến kết quả là năng suất lao động được nâng lên vượt bậc và thực sự hiệu quả hơn. Vì vậy, các nước tư bản phát triển và các công ty xuyên quốc gia đều coi việc phát triển khoa học công nghệ với các ngành công nghệ cao là con bài trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Có thể nói, thực chất của Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá của các nước đang phát triển chính là sự vận dụng thành tựu của khoa học công nghệ dựa trên những đổi mới công nghệ nhằm chuyển hệ thống kinh tế xã hội từ trạng thái năng suất thấp, hiệu quả thấp, sử dụng lao động thủ công là chính, sang một hệ thống có năng suất cao, dựa trên những phương pháp công nghiệp, những công nghệ tiên tiến. Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá cũng là quá
Luận văn liên quan