Luật nhân quyền quốc tế là một trong những ngành luật mới của hệ thống luật quốc tế. Mặc dù những tiền đề của ngành luật này đã xuất hiện từ thế kỷ XIX, và một số quyền và cơ chế bảo vệ quyền con người đã được đề cập từ đầu thế kỷ XX trong một số văn kiện pháp lý của Hội Quốc liên (1919-1939), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Tổ chức Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế, tuy nhiên, xét về mọi mặt có thể khẳng định rằng, Luật nhân quyền quốc tế chỉ mới chính thức hình thành và phát triển sau khi Liên hợp quốc ra đời (1945).
Kể từ năm 1945 đến nay, Liên hợp quốc đã lần lượt xây dựng và thông qua hàng trăm văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, trong đó xương sống của hệ thống là Bộ luật Nhân quyền quốc tế (The International Bill of Human Rights – là tập hợp của ba văn kiện quốc tế cơ bản trên lĩnh vực này bao gồm UDHR, ICCPR và ICESCR). Việc khẳng định thúc đấy và bảo vệ quyền con người là một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc, đã tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển Luật nhân quyền quốc tế.
Nhằm tìm hiểu sâu về vai trò của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người, xin đi sâu vào phần nội dung dưới đây.
12 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2402 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Luật nhân quyền quốc tế là một trong những ngành luật mới của hệ thống luật quốc tế. Mặc dù những tiền đề của ngành luật này đã xuất hiện từ thế kỷ XIX, và một số quyền và cơ chế bảo vệ quyền con người đã được đề cập từ đầu thế kỷ XX trong một số văn kiện pháp lý của Hội Quốc liên (1919-1939), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Tổ chức Chữ thập đỏ - Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế, tuy nhiên, xét về mọi mặt có thể khẳng định rằng, Luật nhân quyền quốc tế chỉ mới chính thức hình thành và phát triển sau khi Liên hợp quốc ra đời (1945).
Kể từ năm 1945 đến nay, Liên hợp quốc đã lần lượt xây dựng và thông qua hàng trăm văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, trong đó xương sống của hệ thống là Bộ luật Nhân quyền quốc tế (The International Bill of Human Rights – là tập hợp của ba văn kiện quốc tế cơ bản trên lĩnh vực này bao gồm UDHR, ICCPR và ICESCR). Việc khẳng định thúc đấy và bảo vệ quyền con người là một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc, đã tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển Luật nhân quyền quốc tế.
Nhằm tìm hiểu sâu về vai trò của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người, xin đi sâu vào phần nội dung dưới đây.
I. KHÁI QUÁT CHUNG LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Luật nhân quyền quốc tế là một tập hợp các tiêu chuẩn quốc tế về các quyền và tự do cơ bản cho mọi cá nhân và những đặc thù áp dụng cho một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Do tính chất rộng lớn của vấn đề và quy định tổng quát trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền nên quan điểm về số lượng (và kèm theo đó là tên gọi) của các quyền ít nhiều khác nhau. Những quyền và tự do cơ bản của cá nhân được chia thành hai nhóm lớn:
- Nhóm quyền dân sự, chính trị bao gồm như: quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng; quyền có quốc tịch….
- Nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa bao gồm như: Quyền được bảo đảm điều kiện làm việc an toàn và công bằng; quyền được học tập; quyền có mức sống thích đáng; quyền được hưởng mức độ sức khỏe cao nhất có thể đạt được….
Tóm lại, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống.
II. VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG VIỆC BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY CÁC QUYỀN CƠ BẢN CỦA CON NGƯỜI
1. Vai trò của bộ máy nhân quyền Liên hợp quốc
Bộ máy nhân quyền Liên hợp quốc (United Nations human rights machinery) là khái niệm chỉ hệ thống những cơ quan của Liên hợp quốc tham gia vào việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trên thế giới, bao gồm sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng kinh tế - xã hội, Hội đồng quản thác và Tòa án quốc tế, được giúp việc bởi một hệ thống các cơ quan chuyên trách về nhân quyền của Liên hợp quốc mà đứng đầu là Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (trước kia là Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc) và Văn phòng cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc. (Xem sơ đồ 1)
Mỗi cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhân quyền Liên hợp quốc có những chức năng, nhiệm vụ và đóng vai trò khác nhau trong việc thực hiện mục tiêu tổ chức này là bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trên thế giới.
1.1 Vai trò của Đại hội đồng Liên hợp quốc
Đại hội đồng là cơ quan đại diện chính của liên hợp quốc, bao gồm tất cả các quốc gia thành viên (Điều 9 Hiến chương). Trách nhiệm của ĐHĐ trong vấn đề quyền con người được đề cập trong Điều 13 Hiến chương, theo đó, ĐHĐ có trách nhiệm tổ chức nghiên cứu và thông qua những kiến nghị nhằm: “…(b)…thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và thực hiện các quyền tự do cơ bản của con người, không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ và tôn giáo”. Liên quan đến khía cạnh này, Điều 10 Hiến chương quy định ĐHĐ có quyền thảo luận về tất cả các vấn đề hoặc các công việc thuộc phạm vi Hiến chương, hoặc thuộc quyền hạn và chức năng của bất kỳ cơ quan nào được ghi trong Hiến chương, trừ trường hợp quy định tại Điều 12 (khi Hội đồng Bảo an thực hiện chức năng duy trì hòa bình và an ninh quốc tế).
Các đề mục về quyền con người trong chương trình nghị sự của ĐHĐ có thể xuất phát từ các nguồn sau: (a) những quyết định của ĐHĐ tại các khóa họp trước nhằm xem xét những vấn đề đặc biêt; (b) từ những báo cáo của ECOSOC; (c) những đề nghị của Tổng Thư ký; (d) những đề nghị của các cơ quan chính của Liên hợp quốc; (e) những đề nghị cảu các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc; (f) những đề nghị của các cơ quan của các quốc gia thành viên. Tùy tính chất và nội dung, ĐHĐ có thể trực tiếp xem xét hoặc chuyển cho các ủy ban giúp việc xem xét các đề mục về quyền con người dự kiến đưa ra trong chương trình nghị sự.
1.2 Vai trò của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
Về nguyên tắc, HĐBA là cơ quan duy nhất trong các cơ quan chính của Liên hợp quốc có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi có vi phạm quyền con người, trên cơ sở quy định tại Chương VII Hiến chương. Theo Hiến chương, tuy các biện pháp cưỡng chế chỉ được phép áp dụng khi có mối nguy cơ chắc chắn đe dọa hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc có hành vi xâm lược (Điều 39) nhưng trong một số trường hợp, quy định này cũng được áp dụng khi: “…sự vi phạm quyền con người dẫn đến tình huống đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế hoặc xâm lược”. Ngoài ra, ở góc độ khác quy định ở Điều 34, 35 Hiến chương cho phép HĐBA đóng vai trò phân xử những tranh chấp giữa các quốc gia trên các lĩnh vực, trong đó có vấn đề quyền con người. Ngoài biện pháp cưỡng chế, HĐBA có thể thông qua các nghị quyết lên án những vi phạm quyền con người nghiêm trọng trên thế giới.
Nói tóm lại, hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tuy về mặt hình thức không thuộc chức năng chính của HĐBA, song thực tế cơ quan này có một vai trò đặc biệt trong cơ chế của Liên hợp quốc về quyền con người, thể hiện trong việc xử lý các vi phạm quyền con người. Tính chất đặc biệt thể hiện ở chỗ, khi việc xử lý các vi phạm quyền con người được gắn với chức năng duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, chúng sẽ có hiệu lực cưỡng chế, điều mà thuộc vào quyền lực riêng của HĐBA. Chính vì vậy, khi đề cập đến bộ máy nhân quyền Liên hợp quốc, một số tài liệu thậm chí đã xếp HĐBA lên trên ĐHĐ.
1.3 Vai trò của Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC)
ECOSOC đóng vai trò rất quan trọng tron bộ máy của Liên hợp quốc về quyền con người. Trong việc xây dựng bộ máy, cơ quan này đã thành lập ra Ủy ban quyền con người (CHR), Ủy ban vị thế của phụ nữ và Ủy ban ngăn ngừa tội ác và tư pháp hình sự. Đây là những cơ quan chuyên môn đã đóng vai trò như những “động cơ” trong bộ máy quyền con người Liên hợp quốc. Những cơ quan này có chức năng rất rộng, từ việc nghiên cứu các vấn đề; đề xuất xây dựng bộ máy, các chương trình hoạt động, soạn thảo các văn kiện cho đến giám sát thực hiện các văn kiện quốc tế về quền con người.
ECOSOC còn một chức năng quan trọng được quy định trong Điều 60 Hiến chương, đó là điều hành cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế và xã hội, mà một trong những mục tiêu của cơ chế này là thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ trên phạm vi toàn cầu các quyền tự do cơ bản của cong người (điểm c, Điều 55 Hiến chương). Trong việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người, ECOSOC là cơ quan chính tổ chức hoạt động nghiên cứu, soạn thảo các văn kiện quốc tế về quyền con người. Ngoài ra, cơ quan này cũng có quyền thông qua các nghị quyết về quyền con người mà liên quan đến chức năng, thẩm quyền của mình.
1.4 Vai trò của Hội đồng quản thác Liên hợp quốc
Chức năng của HĐQT là thực hiện các mục tiêu cơ bản của chế độ quản thác được quy định trong Điều 76 Hiến chương, trong đó có một quy định trực tiếp liên quan đến quyền con người (điểm c, Điều 76). Ngoài ra, trên thực tế, các mục tiêu khác (bao gồm tạo điều kiện phát triển về mọi mặt cho nhân dân các lãnh thổ quản thác để họ tiến tới khả năng tự quản và độc lập; đảm bảo cho nhân dân ở các lãnh thổ này có quyền bình đẳng về mọi mặt với công dân các nước quản thác) cũng liên quan mật thiết đến quyền con người.
1.5 Vai trò của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ)
Về nguyên tắc, ICJ có chức năng xem xét, xử lý các tranh chấp về quyền con người. Tuy nhiên, khác với các cơ chế khác, chủ thể đưa ra các tranh chấp về quyền con người ra ICJ giải quyết phải là các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Thêm vào đó, việc xử lý tranh chấp bởi ICJ được dựa trên cơ sở tranh tụng giữa các bên có liên qun trước phiên tòa, trong khi việc xử lý các tình huống về quyền con người bởi ĐHĐ và HĐBA dựa trên cơ sở thảo luận và biểu quyết trong tập thể các thành viên hai cơ quan này. Ngoài chức năng tài phán, Điều 96 Hiến chương còn quy định ICJ có chức năng tư vấn; theo đó, ĐHĐ và HĐBA có thể yêu cầu ICJ đưa ra kết luận tư vấn về bất kỳ vấn đề pháp lý nào trong đó có vấn đề về quyền con người. Các cơ quan khác của Liên hợp quốc, nếu được ĐHĐ cho phép, cũng có thể hỏi ý kiến ICJ về vấn đề này.
1.6 Vai trò của Ban Thư ký Liên hợp quốc
Với vị thế là cơ quan hành chính cao nhất của Liên hợp quốc, Ban Thư ký có chức năng cung cấp dịch vụ hành chính cho tất cả các cơ quan về quyền con người. Trong số các cơ quan trong Ban Thư ký, có các đơn vị trực tiếp hoạt động trên lĩnh vực quyền con người, trong đó quan trọng nhất là Bộ phận vì sự tiến bộ của phụ nữ của Cục phát triển xã hội và các vấn đề nhân đạo và Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người. Những cơ quan này cung cấp những dịch vụ văn phòng và điều phối các chương trình hoạt động về quyền con người cho cả hệ thống Liên hợp quốc.
1.7 Vai trò của Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc
Theo Điều 4 Nghị quyết A/RES/48/141, Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền có các nhiệm vụ: (a) Thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người cho tất cả mọi người; (b) Đưa ra những kiến nghị cho các cơ quan có thẩm quyền của Liên hợp quốc trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; (c) Thúc đẩy và bảo vệ quyền được phát triển; (d) Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các hoạt động về quyền con người trong hệ thống Liên hợp quốc; (e) Điều phối các chương trình giáo dục và thông tin về quyền con người của Liên hợp quốc; (f) Đóng vai trò tích cực nhằm loại bỏ những trở ngại cho việc hiện thực hóa các quyền con người; (g) Đóng vai trò tích cực nhằm ngăn chặn những vi phạm quyền con người; (h) Tham gia vào đối thoại với các chính phủ với mục đích tăng cường tôn trọng các quyền con người; (i) Hỗ trợ các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; (k) Điều phối các hoạt động về quyền con người trong hệ thống Liên hợp quốc; (l) Xây dựng, củng cô hoạt động của bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc.
1.8 Vai trò của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (HRC)
Theo Nghị quyết số 60/251 của ĐHĐ, HRC có nhưng chức năng, nhiệm vụ sau:
- Thúc đẩy các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và xây dựng năng lực về quyền con người ở các quốc gia;
- Thúc đẩy việc thực thi đầy đủ những nghĩa vụ về quyền con người ở các quốc gia;
- Đóng vai trò là một diễn đàn để đối thoại về những vấn đề nhân quyền cụ thể;
- Đưa ra những kiến nghị với ĐHĐ nhằm thúc đẩy sự phát triển của Luật nhân quyền quốc tế;
- Thực hiện đánh giá định kỳ toàn thể việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về quyền con người của các quốc gia;
- Thông qua đối thoại và hợp tác quốc tế để góp phần phòng ngừa những vi phạm nhân quyền và phản ứng kịp thời với những tình huốn khẩn cấp về nhân quyền;
- Hợp tác chặt chẽ với các chính phủ, các tổ chức khu vực, các cơ quan nhân quyền quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự trong những hoạt động về nhân quyền.
2. Vai trò của Liên hợp quốc trong việc xây dựng và phát triển các chuẩn mực quốc tế về quyền con người
Chính từ thảm họa của chiến tranh thế giới lần thứ II, cộng đồng quốc tế cùng nhau thiết lập bản Hiến chương LHQ năm 1945 và đề ra mục đích nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế giới; thúc đẩy, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Do vậy, chỉ ba năm sau khi LHQ được thành lập, Đại hội đồng LHQ đã thông qua bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 thực sự mở ra một kỉ nguyên mới cho những cam kết và hành động quốc tế trong việc đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của con người. Từ những chuẩn mực tối thiểu được thiết lập trong Hiến chương LHQ và Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, LHQ có sự chuẩn bị tích cực công việc lập pháp về nhân quyền. Trước hết, để biến các quy định của Tuyên ngôn nhân quyền thành cam kết chính trị – pháp lí có giá trị ràng buộc đối với các quốc gia thành viên, Uỷ ban nhân quyền đã bắt tay ngay vào việc soạn thảo Công ước quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên, do hậu quả của chiến tranh lạnh nên các quy định trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã được tách ra thành hai công ước quốc tế riêng biệt. Đó là Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Cả hai công ước này được Đại hội đồng LHQ thông qua năm 1966 và chính thức có hiệu lực năm 1976. Hai công ước này, cùng với Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 được xác định là Bộ luật nhân quyền quốc tế.
Cùng với việc xây dựng Bộ luật nhân quyền mang giá trị pháp lí nền tảng, LHQ cũng tích cực xây dựng các chuẩn mực pháp lí quốc tế nhằm tăng cường bảo vệ các quyền cụ thể, quyền của các nhóm, dân tộc khác nhau, tập trung vào các vấn đề như ngăn ngừa phân biệt đối xử; bảo vệ quyền phụ nữ, quyền trẻ em; xoá bỏ chế độ nô lệ; lao động cưỡng bức; các thể chế, tập tục tương tự nô lệ; quyền con người trong quản lí tư pháp; tự do thông tin; tự do hiệp hội; tuyển dụng lao động; kết hôn, gia đình và thanh niên; phúc lợi xã hội; tiến bộ và phát triển; quyền hưởng thụ văn hoá, phát triển và hợp tác văn hoá quốc tế; quốc tịch, không quốc tịch, cư trú và tị nạn; tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và vấn đề diệt chủng...
Như vậy, nếu xét về mặt số lượng văn bản, chỉ tính từ năm 1948, tức là khi Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Đại hội đồng LHQ thông qua đến nay, đã có hơn 60 văn kiện quốc tế về nhân quyền, trong đó có hơn 30 công ước quốc tế và nghị định thư bổ sung công ước đã được LHQ thông qua, chưa kể các văn kiện quốc tế khác về nhân quyền hoặc liên quan đến nhân quyền do các tổ chức chuyên môn thuộc hệ thống LHQ như Tổ chức lao động thế giới (ILO), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục (UNESCO) và tổ chức quốc tế khác Ủy ban quốc tế chữ thập đỏ... thông qua. Trên cơ sở đó, có thể khẳng định, thành tựu lớn nhất trong hoạt động của LHQ trên lĩnh vực nhân quyền kể từ ngày thành lập đến nay, đó là lần đầu tiên, quyền con người chính thức được đặt trên nền tảng Hiến chương LHQ và luật quốc tế hiện đại. Quyền con người từ chỗ thuộc lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật quốc gia, trở thành vấn đề toàn cầu, được điểu chỉnh bởi pháp luật quốc tế và ngày nay trở thành ngành luật quốc tế về quyền con người. Những nỗ lực, đóng góp của LHQ trong việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người chính là ở chỗ khẳng định giá trị phổ biến của các quyền, tập trung vào quyền bình đẳng của tất cả mọi người; công nhận, thực hiện nhân quyền được xác định là mục tiêu chung của toàn nhân loại; xác định tính toàn diện của các quyền con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá là cho tất cả mọi người đồng thời xây dựng những tiêu chuẩn, luật pháp quốc tế và tạo dựng một hệ thống đảm bảo quốc tế để thúc đẩy, giám sát thực hiện nhân quyền trên phạm vi thế giới và thiết lập tính trách nhiệm của nhà nước đối với các cam kết về nghĩa vụ nhân quyền theo luật pháp quốc tế; thông qua đó, giảm thiểu nguy cơ xâm phạm quyền và các tự do cơ bản của con người ở cấp độ quốc gia.
3. Vai trò của Liên hợp quốc trong việc tăng cường tính hiệu quả trong cơ chế hoạt động nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người
Qua sáu mươi năm hoạt động kể từ ngày thành lập, khó có thể đánh giá hết những thành tựu của LHQ trong việc xây dựng hệ giá trị tiêu chuẩn phổ quát của các quyền con người thông qua đó, cộng đồng thế giới ngày càng quan tâm hơn, có biện pháp tốt hơn cho việc thúc đẩy, bảo vệ những giá trị đích thực của quyền và các tự do cơ bản của con người để phòng tránh cho nhân loại những hậu quả của sự sai lầm xảy ra trong thế kỷ XX như lời mở đầu của Hiến chương LHQ đã xác định. Vai trò trong việc tăng cường tính hiệu quả cơ chế hoạt động của LHQ nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, được thể hiện qua các mặt sau đây:
- Cải tổ thay đổi cơ chế hoạt động của các cơ quan nhân quyền LHQ hiện nay.
Đối với cơ quan được thành lập theo HC: Cải tổ và đổi mới tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân quyền. Đảm bảo giảm thiểu tính quan lieu, tính không hiệu quả và đặc biệt phi chính trị hóa trong hoạt động của cơ quan này theo đúng chức năng, nhiệm vụ và tôn chỉ, mục đích của HC LHQ và các chuẩn mực nhân quyền quốc tế. Đối với các cơ quan được thành lập theo công ước, được tăng cường khả năng giám sát các quốc gia trong việc thực hiện công ước, thông qua việc hỗ trợ các quốc gia để xây dựng và đệ trình báo cáo lên ủy ban công ước. Trong báo cáo năm 2002 về “Tăng cường LHQ: diễn đàn về sự thay đổi hơn nữa”, tổng Thư ký LHQ xác định hiện đại hóa hơn nữa hệ thống điều ước, coi đó là yếu tố chính trong mục tiêu thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền của LHQ . Sự thay đổi này các cơ quan công ước có cách tiếp cận phối hợp chặt chẽ, tìm kiếm cách thức để đề cao hiệu quả hoạt động thông qua việc sắp xếp lại và hài hòa phương pháp làm việc, bài học thực tiễn được rút ra từ nhiều năm qua. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống báo cáo theo điều ước, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các điều ước quốc tế về nhân quyền vì thực tiễn đang có sự thách thức rất lớn như các quốc gia thường báo chậm, thậm chí không báo cáo đồng thời cần tiêu chuẩn hóa những yêu cầu đối với báo cáo khác; thống nhất về nội dung và hình thức của các báo cáo quốc gia, cho phép mỗi quốc gia tự đưa ra báo cáo riêng tóm tắt việc thực hiện một loạt các quyền theo các điều ước nhân quyền quốc tế mà quốc gia là thành viên.
- Tiếp tục xây dựng và phát triển hệ thống điều ước quốc tế về nhân quyền.
Các văn kiện quốc tế về nhân quyền như hiện nay là chưa đủ cho việc thúc đẩy và bảo vệ tốt hơn nữa nhân quyền trong thế kỉ mới chính. Mặc dù năm 2000, số lượng các văn bản quốc tế về nhân quyền đã được thông qua và có hiệu lực, như việc thông qua hai nghị định bổ sung Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 về buôn bán trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; về trẻ em trong xung đột vũ trang. Tháng 12/2002, thông qua Nghị định thư bổ sung Công ước chống tra tấn. Vì vậy LHQ đang tăng cường hơn nữa các văn kiện quốc tế về quyền con người và đang được thảo luận tại các cơ quan nhân quyền của LHQ. Trong đó có việc thành lập ủy ban lâm thời với mục đích soạn thảo “một công ước quốc tế có tính toàn diện và trọn vẹn về bảo vệ, thúc đẩy quyền và nhân phẩm của người tàn tật”. Năm 2002, uỷ ban nhân quyền cũng đã thành lập “nhóm làm việc mở với quan điểm xem xét sự lựa chọn liên quan đến việc chi tiết hóa nghị định thư bổ sung công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa . Việc thông qua một nghị định thư như vậy sẽ mở đường cho ủy ban về quyền kinh tế, xã hội có thẩm quyền xem xét đơn khiếu nại của cá nhân cho rằng các quyền trong công ước bị quốc gia thành viên xâm phạm.
- Tăng cường hoạt động trợ giúp, bảo đảm nhân quyền ở các quốc gia (Xem sơ đồ 2).
Tính hiệu quả trong hoạt động của LHQ đối với việc bảo vệ quyền con người chính là việc xây dựng và xác lập tiêu chuẩn, khuôn khổ pháp lý quốc tế, được áp dụng toàn cầu và thông qua đó, các quốc gia không phân biệt hệ thống chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội tự nguyện chấp nhận và ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của mình theo khuôn khổ pháp lý quốc tế và qua đó, chuẩn mực nhân quyền quốc tế được xác lập và hài hòa ở cấp độ quốc gia. Chính vì vậy, không thể nói hoạt động bảo vệ nhân quyền của LHQ có hiệu quả một khi nhân quyền ở nhiều quốc gia bị vi phạm hay chà đạp thô bạo.
Chính vì vậy, LHQ đã tăng cường các hoạt động trợ giúp quốc gia trong việc thực hiện các công ước quốc tế về nhân quyền. Hoạt động trợ g