Đề tài Vai trò của pháp luật đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng, nó là một trong những công cụ nhất định không thể thiếu của nhà nước để tổ chức và quản lý xã hội, duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Pháp luật luôn tác động và ảnh hưởng rất lớn tới trật tự và sự phát triển của các quan hệ xã hội, xác lập, củng cố và bảo vệ các quan hệ kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù ra đời, phát triển và thay đổi cùng với sự phát triển và thay đổi của kinh tế nhưng pháp luật có vai trò to lớn trong việc tổ chức và quản lý kinh tế, nó là yếu tố điều tiết quá trình sản xuất, trao đổi và phân phối sản phẩm. Tuy nhiên, vấn đề có tính nguyên tắc là sự phản ánh của pháp luật luôn phải phù hợp với những nhu cầu khách quan, phổ biến và điển hình của nền kinh tế. Quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam những năm vừa qua là một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định nền kinh tế của nước ta hiện nay là: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Đại hội cũng khẳng định phải tiếp tục “đổi mới và tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa về nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ”. Nhận thấy, việc nghiên cứu “vai trò của pháp luật đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết vì pháp luật có thể tác động tích cực tới việc phát triển kinh tế nhưng nó cũng có thể tác động tiêu cực nếu như những quy định của nó không phù hợp, cao hơn hoặc thấp hơn so với trình độ của nền kinh tế. Chính vì vậy nên em đã chọn đề tài này cho bài tiểu luận của mình. Kính mong quý thầy cô và các bạn có ý kiến đóng góp để bài luận được hoàn chỉnh hơn!.

doc9 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 7501 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của pháp luật đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng, nó là một trong những công cụ nhất định không thể thiếu của nhà nước để tổ chức và quản lý xã hội, duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Pháp luật luôn tác động và ảnh hưởng rất lớn tới trật tự và sự phát triển của các quan hệ xã hội, xác lập, củng cố và bảo vệ các quan hệ kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù ra đời, phát triển và thay đổi cùng với sự phát triển và thay đổi của kinh tế nhưng pháp luật có vai trò to lớn trong việc tổ chức và quản lý kinh tế, nó là yếu tố điều tiết quá trình sản xuất, trao đổi và phân phối sản phẩm. Tuy nhiên, vấn đề có tính nguyên tắc là sự phản ánh của pháp luật luôn phải phù hợp với những nhu cầu khách quan, phổ biến và điển hình của nền kinh tế. Quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam những năm vừa qua là một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định nền kinh tế của nước ta hiện nay là: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước..bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Đại hội cũng khẳng định phải tiếp tục “đổi mới và tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa về nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ”. Nhận thấy, việc nghiên cứu “vai trò của pháp luật đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết vì pháp luật có thể tác động tích cực tới việc phát triển kinh tế nhưng nó cũng có thể tác động tiêu cực nếu như những quy định của nó không phù hợp, cao hơn hoặc thấp hơn so với trình độ của nền kinh tế. Chính vì vậy nên em đã chọn đề tài này cho bài tiểu luận của mình. Kính mong quý thầy cô và các bạn có ý kiến đóng góp để bài luận được hoàn chỉnh hơn!. B.NỘI DUNG 1.Vai trò của pháp luật đối với việc phát triển kinh tế nói chung Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. Kinh tế là tổng thể các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người với một nguồn lực có giới hạn. Pháp luật là hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội, kinh tế là hiện tượng thuộc cơ sở hạ tầng của xã hội nên pháp luật phụ thuộc vào kinh tế, quy định của nó không được cao hơn hoặc thấp hơn trình độ của nền kinh tế đã sinh ra nó. Tuy nhiên, với tính độc lập tương đối của mình, pháp luật có thể tác động trở lại tới sự phát triển kinh tế. Thông qua vệc điều tiết nền kinh tế, pháp luật có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển khi những quy định của nó phù hợp, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế. Nhưng ngược lại, pháp luật cũng có thể kìm hãm sự phát triển của kinh tế khi những quy định của nó cao hơn hoặc thấp hơn so với trình độ của nền kinh tế. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế, thiết lập một trật tự kinh tế, giữ vai trò hướng dẫn, định hướng phát triển nền kinh tế. Vai trò của pháp luật không chỉ thể hiện rõ trong giai đoạn chuyển đối các hình thái kinh tế xã hội, vai trò của pháp luật cũng rất rõ nét ở những giai đoạn phát triển khác nhau trong cùng hình thái kinh tế - xã hội, đặc biệt trong những giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế để đảm bảo sự thích ứng với trình độ phát triển của nền kinh tế. 2. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam Qua 20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Từng bước phát triển đồng bộ và quản lý sự vận hành các loại thị trường cơ bản, theo cơ chế mới. Thị trường hàng hoá phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các thị trường dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, bất động sản đang được hình thành. Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính ngày càng được tăng cường, thu ngân sách tăng trên 18%/năm; chi cho đầu tư phát triển bình quân chiếm khoảng 30% tổng chi ngân sách. Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD/năm, đến nay tổng kim ngạch xuất khẩu đã vượt hơn 50% GDP, tức là trên 25 tỷ USD/năm. Một số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới với những thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng rất nhanh, tăng 15,7%/năm, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang những nền kinh tế lớn. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng khoảng 19%/năm, nhập siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu tuy còn cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm dần. Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 36% năm 2005, hàng nông, lâm thuỷ sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 38,8% lên 39,8%. Nước ta vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Nền kinh tế mang nặng tính chất tự cấp tự túc, công nghiệp nhỏ bé và lạc hậu, các ngành dịch vụ chưa phát triển. Chiến tranh kéo dài làm tổn hao lớn về người và của ; nhiều cơ sở công nghiệp mới được khôi phục và xây dựng đã bị tàn phá ; đường sá và các cơ sở hạ tầng kỹ thuật bị hư hỏng nặng ; đời sống kinh tế - xã hội bị đảo lộn. Trước đây, đặc biệt là trong thời kì chiến tranh, những cân đối lớn trong nền kinh tế của đất nước được đảm bảo bằng viện trợ và vay nợ của nước ngoài. Vì thế, tuy có những năm mức tăng trưởng kinh tế tương đối khá, nhưng tỉ lệ nhập siêu rất lớn. Từ sau khi đất nước thống nhất, các nguồn viện trợ bị cắt giảm đột ngột, Hoa Kì lại duy trì chính sách cấm vận chống Việt Nam trong nhiều năm. Các quan hệ kinh tế xuất nhập khẩu trước đây bị phá vỡ. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vào cuối thập kỉ 70, nửa đầu thập kỉ 80 của thế kỷ XX. Công cuộc Đổi mới được triển khai từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay đã đưa nước ta từng bước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lạm phát được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ, tuy còn thấp. Đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, trong quá trình Đổi mới, nền kinh tế của nước ta phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách. Những đổi mới trong cơ cấu kinh tế còn chậm, tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy cao nhưng chưa xứng với tiềm năng và thế mạnh của đất nước. Chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, tốc độ tăng trưởng trong một số ngành còn chưa thật sự vững chắc. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn gặp khó khăn. Tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn khá trầm trọng. Sự phân hoá giàu nghèo đang có xu hướng tăng. Đứng trước những khó khăn, thử thách lớn như vậy, vai trò của pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa,tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. 3.Vai trò của pháp luật đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay 3.1.Pháp luật là công cụ quản lý kinh tế của cả nước Pháp luật là một trong những phương tiện quan trọng để quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách kinh tế, các mục tiêu kinh tế của nhà nước và của xã hội. Thông qua pháp luật, nhà nước đề ra những chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế, đất nước; xác định cơ cấu các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân; tổ chức quản lý và giám sát quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua pháp luật, nhà nước đã đề ra các chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế. Ở nước ta, trong thời kì nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, Đảng và nhà nước cũng đã nhiều lần đặt vấn đề tìm kiếm mô hình đối với nền kinh tế. Nhưng chỉ đến khi trong nông nghiệp có đột phá về chính sách khoán 10-TW. Chính phủ ban hành tiếp Nghị định số 169 - HĐBT, 170 – HĐBT, 171 – HĐBT ngày 14/11/1988 để triển khai thực hiện Nghị quyết 10, thông qua quy chế khoán đã được pháp luật quy định, nó mở đường cho nông nghiệp phát triển. Pháp luật thể chế hóa các chính sách phát triển bền vững nền kinh tế thành hệ thống các quy phạm, tạo cơ sở pháp lý để xác lập, củng cố và định hướng phát triển cho một chế độ kinh tế. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nhiều văn bản pháp luật kinh tế được ban hành kịp thời phù hợp với tình hình mới đã có tác dụng thiết thực tăng cường hiệu lực của nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Pháp luật tạo ra các hành lang pháp lý an toàn cho kinh tế, dẫn dắt các quá trình kinh tế phát triển, tức là nó có vai trò mở đường cho nền kinh tế, đảm bảo cho việc thực hiện những kế hoạch, chính sách mà nhà nước đề ra được thực hiện một cách có hiệu quả. Thông qua pháp luật, nhà nước xác định cơ cấu, các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Pháp luật phản ánh và xác lập các cơ sở của thị trường như chế độ sở hữu, quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh tế, quan hệ hợp đồng và các yếu tố thị trường. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, việc xác định chế độ sở hữu là đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của nền kinh tế. Trong những năm trước đổi mới, chúng ta chỉ thừa nhận sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, không phát huy được sự năng động, sáng tạo của nền kinh tế dẫn đến tình trạng khủng hoảng, trì trệ. Kể từ khi đổi mới,việc xác lập chế độ kinh tế, xác định cơ cấu các thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân đã có tác dụng rõ rệt, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và liên tục trong suốt hơn 20 năm qua. Đảng ta đã xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với đó là sự phát triển của thành phần kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Điều 19 – Hiến pháp hiện hành đã chỉ rõ những chính sách của nhà nước đối với thành phần kinh tế nhà nước. Bên cạnh đó, pháp luật còn tạo điều kiện cho những chính sách phát triển nền kinh tế mở cửa với nước ngoài được đảm bảo và phát huy hiệu quả. Pháp luật mở lối cho kinh tế nhưng đồng thời là lá chắn bảo vệ nền kinh tế. Thông qua pháp luật, nhà nước quản lý quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong tất cả các quá trình. Nền kinh tế là một hệ thống hết sức phức tạp, đầy biến động. Các hoạt động kinh tế đều có mục đích lợi ích, vì vậy sự bất ổn, rủi ro, lấn lướt, xâm hại lợi ích lẫn nhau có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu không có những quy tắc đủ mạnh để điều chỉnh. Vì vậy, pháp luật được sinh ra và trở thành công cụ không thể thay thế được để đảm bảo cho các quan hệ kinh tế được xây dựng trên cơ sở quan hệ pháp luật mà trong đó các chủ thể kinh tế được tự do thực hiện quyền của mình và được bảo vệ lợi ích, nhưng đồng thời cũng chịu ràng buộc, phải tôn trọng quyền tự do tiến hành các hoạt động của chủ thể khác và phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định. Pháp luật thực hiện việc điều tiết các quan hệ kinh tế, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường bằng việc khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, khắc phục tình trạng thị trường không hoàn thiện trong các lĩnh vực như: chứng khoán, kinh tế môi trường…bảo đảm giải quyết tối ưu mối quan hệ chi phí – hiệu quả - lợi ích. Đối với kinh tế vĩ mô, pháp luật cung cấp những công cụ để điều hành, như: thuế, quy định về việc phát hành trái phiếu Chính phủ… Thông qua pháp luật, nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự phát triển đa dạng các loại tranh chấp kinh tế, thương mại cũng như những tiêu cực nảy sinh: cạnh tranh không lành mạnh, sản xuất,kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng,…Để bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người sản xuất và người tiêu dùng, nhà nước đã tích cực kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm hàng hóa. Pháp luật tác động vào ý thức của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế, giúp chủ thể nhận thức được các yêu cầu của pháp luật để có những hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật. Pháp luật cũng phải là công cụ để nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh doanh, trừng trị mọi hành vi kinh doanh phi pháp, thực hiện sự công bằng trong sản xuất, phân phối. 3.2.Pháp luật đề ra các biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiến hành có hiệu quả, khắc phục những “mặt trái” của nền kinh tế thị trường. 3.2.1.Vấn đề cạnh tranh không lành mạnh Trước hết, nền kinh tế thị trường đòi hỏi pháp luật phải thừa nhận sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế, phải tuyên bố và bảo đảm cho các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau và phải chấp nhận sự cạnh tranh của các thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia sản xuất và kinh doanh trên thị trường cả trong và ngoài nước. Nhưng sự cạnh tranh, nhất là cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế thì thường rất khốc liệt vì nó liên quan tới lợi nhuận, đến nguồn lợi ích vật chất rất lớn. Nếu không có những quy định thật chặt chẽ, cụ thể của pháp luật thì sự cạnh tranh thường là không lành mạnh, tất yếu dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, phá sản và hiện tượng độc quyền…làm tổn hại đến quá trình sản xuất, kinh doanh của các chủ thể và lợi ích của người tiêu dùng. Vì vậy, nhà nước thông qua pháp luật cần phải tạo ra những sân chơi(thị trường) hấp dẫn, xác định luật chơi phù hợp và cho phép tìm kiếm, thậm chí phải tạo ra những người chơi thích hợp. Pháp luật cho phép, thậm chí là khuyến khích, thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh nhưng phải đảm bảo cho việc cạnh tranh diễn ra lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật và sự cạnh tranh đó phải mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển( nó bắt buộc các chủ thể sản xuất, kinh doanh trên thị trường phải không ngừng sáng tạo, áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất, tiết kiệm và đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của khách hàng, của người tiêu dùng theo phương châm “khách hàng là thượng đế”),sự cạnh tranh không được tiêu diêt lẫn nhau, kìm hãm sự phát triển và tiến bộ trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc ban hành các quy định pháp luật theo xu hướng thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa các loại hình sản xuất, kinh doanh, tuyên bố quyền tự do kinh doanh; quyền tự chủ của các chủ thể sản xuất, kinh doanh; sự bình đẳng của các chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh; các quy định pháp luật về phá sản, về cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, chống bán phá giá,..là việc làm tất yếu, cần thiết của tất cả những nước quyết định xây dựng nền kinh tế của mình theo cơ chế thị trường, trong đó có Việt Nam. Có thể nói, pháp luật Việt Nam đã và đang góp phần tạo ra nhiều sân chơi, đưa ra luật chơi và các điều kiện cho cuộc chơi có hiệu quả vì lợi ích của mỗi chủ thể sản xuất, kinh doanh và lợi ích toàn xã hội. 3.2.2.Vấn đề phân hóa giàu nghèo Trong nền kinh tế thị trường, tính độc lập, tự chủ của các chủ thể kinh tế được đề cao, do vậy lợi ích cục bộ của mỗi chủ thể cũng được đề cao. Điều này dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo ngày càng cao, sự mất công bằng ngày càng lớn giữa các tổ chức, đơn vị kinh tế cũng như giữa các cá nhân trong xã hội. Chẳng hạn, ở nước ta kể từ khi chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường thì sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động và các ngành nghề khác nhau, giữa những người lao động nói chung đã và đang diễn ra khá nhanh. Như vậy, nền kinh tế thị trường đã làm cho các vấn đề xã hội vốn đã phức tạp, gay gắt lại càng trở nên phức tạp, gay gắt hơn. Do vậy, nhiệm vụ cấp thiết và thiết thực nhất trong giai đoạn hiện nay đối với pháp luật Việt Nam là phải đảm bảo sự tăng trưởng không ngừng và bền vững của nền kinh tế đất nước đồng thời phải nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo cho tất cả những người dân trong xã hội, nhất là những đối tượng thuộc diện chính sách. Điều này đòi hỏi pháp luật phải quy định các biện pháp hữu hiệu để giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bớt những chênh lệch, mâu thuẫn giữa các tổ chức và cá nhân, đảm bảo một sự công bằng tương đối trong xã hội. Chẳng hạn, pháp luật phải quy định: chế độ bảo hiểm bắt buộc với một số lĩnh vực nhất định như hưu trí, y tế…đối với tất cả các tổ chức và cá nhân trong xã hội; quy định nghĩa vụ đóng góp phúc lợi xã hội của các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các đơn vị kinh tế làm ăn phát đạt; quy định hợp lý các loại thuế, đánh thuế với những người có thu nhập cao; có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân làm công tác từ thiện, ủng hộ, giúp đỡ các gia đình và cá nhân gặp khó khăn, nghèo đói. Tuy vậy, cần chú ý là việc quy định các chính sách pháp luật đối với những người nghèo phải có tác dụng tạo điều kiện công ăn việc làm,cho họ có thể vươn lên thoát khỏi khó khăn và nghèo đói với phương châm “hãy cho họ chiếc cần câu chứ không nên chỉ cho họ con cá”.Đương nhiên việc quy định các chính sách xã hội của nhà nước phải nằm trong khả năng có thể của nền kinh tế đất nước (các quy định pháp luật không được cao hơn điều kiện kinh tế của đất nước), phải kết hợp hài hòa giữa sự phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. 3.2.3.Vấn đề kinh tế phát triển mất cân đối Nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ chế cung cầu nên tính kế hoạch trong từng đơn vị kinh tế thì rất cao nhưng trong tổng thể toàn xã hội thì thường không cao nên dễ dẫn đến tình trạng nền kinh tế quốc dân phát triển mất cân đối, hiện tượng khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu là chuyện vẫn thường xảy ra trên quy mô toàn xã hội. Chẳng hạn, hiện tượng đua nhau chặt phá cà phê để trồng cây khác khi cà phê mất giá. Và chỉ một thời gian không lâu sau đó, khủng hoảng thiếu xảy ra đối với mặt hàng cà phê. Như vậy, dù là kinh tế thị trường thì pháp luật vẫn phải có vai trò đảm bảo tính kế hoạch trong việc phát triển tổng thể của nền kinh tế quốc dân, có như vậy mới tránh được hiện tượng phát triển mất cân đối đảm bảo sự hài hòa của các quá trình kinh tế - xã hội. Muốn làm được điều này, pháp luật phải ghi nhận và có biện pháp bảo đảm sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế đất nước, đảm bảo cho thành phần kinh tế nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Dù là nền kinh tế thị trường thì cũng không thể thiếu được vai trò điều tiết của nhà nước, nhưng sự điều tiết của nhà nước không phải chỉ thông qua các chính sách kinh tế, tài chính, các quy định của pháp luật mà còn thông qua tính hiệu quả của chính thành phần kinh tế nhà nước. Vì vậy, vai trò quản lý của nhà nước đối với sự phát triển cân đối của nền kinh tế đất nước là rất quan trọng. 3.2.4.Vấn đề phát sinh tiêu cực, tệ nạn xã hội Nền kinh tế thị trường còn tác động làm nảy sinh nhiều tệ nạn tiêu cực trong các hoạt động kinh tế - xã hội, pháp luật với nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự của công dân, bảo vệ hệ thống chính trị cần phải ngăn ngừa xử lý các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội, tiến tới xóa bỏ các hiện tượng này, thiết lập và bảo vệ một trật tự trong các quan hệ kinh tế - xã hội vì cuộc sống hạnh phúc, yên bình của nhân dân. 3.2.5.Vấn đề đấu tranh và hợp tác kinh tế giữa các nước trên thế giới Hội nhập kinh tế là xu thế đang diễn ra mạnh mẽ, mỗi quốc gi
Luận văn liên quan