Đề tài Vai trò của pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế đang là một xu thế phát triển tất yếu, cuốn hút toàn thể nhân loại hòa vào dòng chảy của nó. Quá trình hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những thời cơ và thách thức không nhỏ cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Một trong những thách thức ấy chính là việc xóa bỏ các rào cản tự do hóa thương mại toàn cầu, trong đó quan trọng nhất là việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan. Đây là vấn đề ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó, bộ phận pháp luật chịu sự tác động trực tiếp của trào lưu hội nhập chính là pháp luật thuế. Ở nước ta hiện nay, cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp luật thuế giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, nếu không có hệ thống pháp luật thuế thì không thể thì một quốc gia không thể phát triển toàn diện. Với ý nghĩa to lớn đó, sau đây em xin được đi tìm hiểu vấn đề: “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” với mong muốn được hiểu biết rõ hơn về các vai trò của hệ thống pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay.

doc17 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3722 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU B. NỘI DUNG I. Lý luận chung về thuế và pháp luật thuế 1. Khái quát chung về thuế trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay 1.1/ Sự ra đời và tính tất yếu khách quan của thuế 1.2/ Định nghĩa thuế 1.3/ Đặc điểm của thuế 2. Pháp luật thuế II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay 1/ Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng để ổn định nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi của Nhà nước 2/ Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của Nhà nước 3/ Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. 4/ Pháp luật thuế giúp Nhà nước kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh 5/ Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước 6/ Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu, nộp thuế III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế 1/ Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập quốc tế 2/ Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế C. KẾT LUẬN D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. LỜI NÓI ĐẦU Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế đang là một xu thế phát triển tất yếu, cuốn hút toàn thể nhân loại hòa vào dòng chảy của nó. Quá trình hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những thời cơ và thách thức không nhỏ cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Một trong những thách thức ấy chính là việc xóa bỏ các rào cản tự do hóa thương mại toàn cầu, trong đó quan trọng nhất là việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan. Đây là vấn đề ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó, bộ phận pháp luật chịu sự tác động trực tiếp của trào lưu hội nhập chính là pháp luật thuế. Ở nước ta hiện nay, cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp luật thuế giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, nếu không có hệ thống pháp luật thuế thì không thể thì một quốc gia không thể phát triển toàn diện. Với ý nghĩa to lớn đó, sau đây em xin được đi tìm hiểu vấn đề: “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” với mong muốn được hiểu biết rõ hơn về các vai trò của hệ thống pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay. B. NỘI DUNG I. Lý luận chung về thuế, pháp luật thuế 1. Khái quát chung về thuế trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay 1.1/ Sự ra đời và tính tất yếu khách quan của thuế Thuế ra đời gắn liền với sự hình thành của Nhà nước, bởi Nhà nước ra đời, mục đích ban đầu là phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, kéo theo là cơ quan chức năng, cơ quan quyền lực và công cụ thực hiện quyền lực. Các cơ quan này không tạo ra nguồn vật chất cung cấp cho chính sự tồn tại và phát triển của bản thân mà trông chờ vào sự đóng góp của toàn thể công dân. Bằng sức mạnh quyền lực chính trị của mình, Nhà nước bắt buộc mọi công dân phải chuyển một phần thu nhập của mình vào tay Nhà nước. Những khoản tiền mà công dân đóng góp từ thu nhập của mình chuyển cho Nhà nước nhằm tạo ra nguồn vật chất cung ứng cho mọi hoạt động của Nhà nước gọi là thuế. Vậy sự ra đời của thuế chính là sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Có thể nói, thuế là phạm trù lịch sử, là một tất yếu khách quan xuất hiện từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế được Nhà nước sử dụng như một công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh kinh tế và điều hòa thu nhập. 1.2/ Định nghĩa về thuế Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuế nhưng có thể hiểu một cách chung nhất đó là: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Như vậy, có thể thấy, bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với Nhà nước, loại quan hệ giữa Nhà nước với người nộp thuế. Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan hệ thu và nộp như nhau. 1.3/ Đặc điểm của thuế Thuế bao gồm bốn đặc điểm chính: Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc thể hiện ở chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho Nhà nước khi có đủ điều kiện. Đối với các cơ quan thu thuế, khi thay mặt Nhà nước thực hiện những hành vi nhất định cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử đối với người nộp thuế. Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực. Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho Nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị, Nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho Nhà nước. Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Nộp thuế là một nghĩa vụ xã hội mà công dân không có quyền trốn tránh và cũng không có quyền đòi hỏi trao đổi ngang giá (đối giá trực tiếp). Số tiền thuế mà các cá nhân và tổ chức kinh tế phải nộp không phụ thuộc vào mức độ thụ hưởng các dịch vụ công cộng do Nhà nước cung cấp tức là lợi ích riêng mà tuỳ theo khả năng thu thuế. Bất kỳ ai, khi có đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước, không phân biệt họ đã nhận được những lợi ích công cộng nào. Thứ tư, thuế đảm bảo việc chi tiêu cho lợi ích công cộng. Tổng thu nhập từ thuế Nhà nước chỉ chi một phần cho quản lý hành chính, đại bộ phận số thu nhập còn lại được chuyển giao cho dân chúng thông qua các hoạt động sự nghiệp và phúc lợi công cộng như: văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, thông tin, thể thao, bảo vệ môi trường, bảo trợ xã hội… 2. Pháp luật thuế Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước. Như vậy, pháp luật thuế chính là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và cư dân dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó, lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp nhằm đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay Pháp luật thuế không chỉ quy định nội dung các thứ thuế mà còn xác lập các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp bảo đảm thực hiện thu, nộp thuế. Chính vì vậy, pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, thuế cũng như pháp luật thuế đang có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. 1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lí quan trọng để ổn định nguồn thu, được Nhà nước sử dụng như một công cụ chủ yếu để tập trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của Nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể khi có đủ các điều kiện. Điều này có nghĩa nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật thuế. Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách, đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu thiết yếu của nhà nước. Do đó, sự thay đổi của các quy định pháp luật thuế đều ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Như vậy, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước. Trong xã hội hiện đại, ngân sách nhà nước có ý nghĩa sống còn đối với bất kì quốc gia nào. Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự ngiệp phát triển kinh tế, xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng và cần thiết. Chính điều này đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật thuế. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng. Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Pháp luật thuế nói chung và thuế nói riêng không chỉ là công cụ quan trọng để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà còn điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kì, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Với những lý do đó, bất kì quốc gia nào cũng cần phải xây dựng hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. 2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kì nhất định của Nhà nước Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách”. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội. Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng. Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau thùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa phù hợp với giai đoạn hiện tại. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó. Trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội. Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Không những vậy, thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung – cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật thuế góp phần phát huy cao độ các nguồn nội lực, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng sức sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội 3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng. Vấn đề điều tiết thu nhập cũng đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất... đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội. Có thể khẳng định pháp luật thuế có vai trò quan trong trong việc giúp Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội của mình. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu nghèo, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Bằng những quy định của pháp luật thuế, Nhà nước phát huy trách nhiệm của mỗi cá thể đối với cộng đồng xã hội. 4. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy đinh gắn với chế độ chứng từ, hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thái kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, Nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế; trên cơ sở đó, có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung. 5. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn yếu kém về nhiều mặt nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, pháp luật thuế hiện nay còn được coi là một trong những vũ khí cạnh tranh sắc bén của mỗi nước trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hầu hết ở các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều đang ra sức sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế của mình cho hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. 6. Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu, nộp thuế Từ phương diện quản lý Nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế về bản chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự bản thân nó đã là một mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các hoạt động xã hội tiêu cực, làm phương hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật thuế, Nhà nước đã đưa ra các giới hạn “hành lang”, thiết lập các “hàng rào pháp lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khuôn khổ. Vượt ra ngoài khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc. Tóm lại, pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của cuộc sống các quan hệ thuế. Đến lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế phát sinh, phát triển theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiến tạo một môi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, tiến bộ, làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành công. III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế 1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập quốc tế Trong vài thập kỷ gần đây, quốc tế hóa các hoạt động kinh tế của từng quốc gia đã và đang trở thành xu thế phổ biến ở hầu hết các nước. Hiện tượng này xuất hiện do một số nguyên nhân chủ yếu như: (1) trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là mức độ phát triển các quan hệ kinh tế giữa
Luận văn liên quan