Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. vậy làm thế nào để Việt Nam có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những cơ hội và thách thức mới? Các thành phần kinh tế nhà nước nói riêng đã thúc đẩy tiến trình hội nhập ra sao? Thành phần kinh tế nhà nước có vai trò như thế nào trong nền kinh tế hiện nay.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kì đổi mới nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường là sự kết tinh trí tuệ của toàn đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân, xây dựng đất nước Đảng ta xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4372 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước trong xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Lời mở đầu
Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. vậy làm thế nào để Việt Nam có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những cơ hội và thách thức mới? Các thành phần kinh tế nhà nước nói riêng đã thúc đẩy tiến trình hội nhập ra sao? Thành phần kinh tế nhà nước có vai trò như thế nào trong nền kinh tế hiện nay.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kì đổi mới nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường là sự kết tinh trí tuệ của toàn đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân, xây dựng đất nước Đảng ta xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Phần nội dung
Phần I: Cơ sở lý thuyết
1.1.Khái niệm
1.1.1. Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế có sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước bằng những chính sách kinh tế vĩ mô, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững, đúng hướng, có sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế trên thị trường, nhà nước sẽ can thiệp bằng các công cụ tài chính vào nền kinh tế khi cần thiết để ổn định thị trường.
Trái với nền kinh tế tự cung tự cấp người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng là nền kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động vào trao đỏi hàng hóa dịch vụ giữa người này với người khác. Khi cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường, kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế thị trường.
1.1.2. Kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân vế tư liệu sản xuất, kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, quỹ đầu tư dữ trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trương định hướng XHCN.
Hiện nay ở nước ta cố các thành phần kinh tế:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tư nhân
- Kinh tế tư bản nhà nước (gồm kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ)
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, xã hội và chấp hành pháp luật.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng ,mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sử hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi ngững người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn phân phối theo lao động, theo vốn góp, hợp tác tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và công khai phát triển cộng đồng. Kinh tế tập thể lấy lợi ích tập thể , coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói ,giảm nghèo, tiến lên làm giàu, phát triển kinh tế tập tế theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả tích cực.
1.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội X
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX xác định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết, đó không phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung cũng không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền… Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công củ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng , là một tỏng những động lực của nền kinh tế”.
Phần II: Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay
Qua thực tiễn của 20 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần. Đó là:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
2.1 Kinh tế nhà nước:
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế.
Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở việc “làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”.
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó được thể hiện như sau:
Một là, doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những ngành, lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế và chấp hành pháp luật.
Hai là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó mở đường, hướng dẫn hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. xã hội và chấp hành pháp luật.
2.2 Kinh tế tập thể:
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tựphát triển cộng đồng.
+Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo; tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên.
+ Hợp tác xã kiểu mới đã khắc phục những hạn chế của hợp tác xã kiểu cũ. Nó do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ…), cả người ít vốn và người nhiều vốn, người góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tự nguyện, tôn trọng các nguyên tắc, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Hợp tác xã không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên mà dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã không bị giới hạn bởi quy mô, lĩnh vực và địa bàn, hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường.
+Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất. Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng quỹ hỗ trợ hợp tác xã. chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
2.3 Kinh tế tư nhân:
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. "Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế"1.
Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ:
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Sự khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ ở chỗ: trong kinh tế cá thể nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, còn trong kinh tế tiểu chủ, tuy nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, nhưng có thuê lao động ở nước ta do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước.
- Kinh tế tư bản tư nhân:
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, thành phần này còn có vai trò đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, khai thác các nguồn vốn, giải quyết việc làm và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước, tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao.
2.4 Kinh tế tư bản nhà nước:
Kinh tế tư bản nhà nước dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước dưới các hình thức hợp tác liên doanh. Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn trong việc huy động vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý tiên tiến vì lợi ích của bản thân kinh tế tư bản tư nhân và phát triển kinh tế của đất nước. Thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể trong giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sự tồn tại thành phần kinh tế này là rất cần thiết, cần phát triển mạnh mẽ nó trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
2.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Nguồn gốc và bản chất của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) ở Việt Nam hiện nay. Cơ sở lý luận về nguồn gốc ra đời của FIE là tập hợp các doanh nghiệp do luồng vốn đầu tư từ các đối tác kinh tế ngoài nước vào nền kinh tế nội địa hình thành nên. Bản chất của FIE là sự kéo dài đầu tư trong nước vượt biên giới quốc gia với mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao. Đối với nước nhận đầu tư, khu vực FIE là một yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, tạo lập cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho phương thức sản xuất mới, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thông qua bổ sung nguồn vốn đầu tư, chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, tạo việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Phần III: Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay
Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại đồng thời nhiều thành phần kinh tế những nền kinh tế nhiều thành phần ở những nước có chế độ chính trị khác nhau lại mang những đặc điểm khác nhau rất căn bản. Nếu như trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thành phần kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị thì trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở nước ta thì thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo và KTNN cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho sự đi lên và phát triển của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sở dĩ thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo bởi vì những lý do chính sau:
Thứ nhất, chúng ta đều biết “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”. Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu dưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thành phần KTNN của nước ta mà trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta do hạn chế của trình độ lực lượng sản xuất phát triển còn thấp, các quan hệ sở hữu còn tồn tại dưới nhiều hình thức, do đó nền kinh tế nước ta ở giai đoạn này là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà không ai có thể phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… điều đó đòi hỏi cơ chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và công cụ hữu hiệu nhất mà thông qua nó nhà nước thể hiện vai trò điều tiết của mình đó là thành phân KTNN. Chỉ có KTNN mới có thể bảo đảm vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo cho lợi ích của người lao động, khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó của KTNN đã được chứng minh qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở nước ta sau đổi mới đến nay:
Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn, khắc nghiệt như: thể chế xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Mĩ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực 1997 – 1998 tác động mạnh, thiên tai liên tiếp xảy ra việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới nhưng bao hàm cả những khó khăn thách thức. Song chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, quốc phòng an ninh được tăng cường, sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Kết quả trên có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó KTNN góp phần rất to lớn. Năm 2000 DNNN làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu DNNN là đối tác chủ yếu trong hợp tác đầu tư nước ngoài, chiếm 98% số dự án liên doanh với nước ngoài. DNNN có năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu ngày càng hoàn thiện và từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Các tổng công ty có quy mô lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng nắm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động, trình độ công nghệ quả lý có nhiều tiến bộ. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN được nâng lên, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội. Đây cũng là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an ninh quốc phòng. Có thể khẳng định KTNN nói chung và các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Đứng vững trước những tác động của khủng hoảng kinh tế quốc tế, khu vực. Tạo tiền đề cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN.
Thứ hai là KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trường vẫn chưa hoàn thiện, người dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ tạo nguồn đầu tư cơ bản, kinh tế tư nhân còn nhỏ bé thì DNNN có vai trò huy động vốn đầu tư xây dựng những công trình lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấ