Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: Quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xất lớn của nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn mang nhiều tính chất tự túc, tự cấp thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; khẳng định sự cần thiết của quan hệ hàng hóa tiền tệ CNXH, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ kinh tế hàng hóa.
Đai hội VII của Đảng đã tiến thêm một bước nhận thức lý luận quy định: ''Cơ chế vận hành nềnkinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác “.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới, tại đại hội Đảng VIII ta đã khẳng định: Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan; và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Đến đại hội IX, Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'', khẳng định phát triển KTTT định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đây là mô hình phát triển KTTT mới trong lịch sử phát triển, có những đặc điểm chung của kinh tế hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Việt Nam đang trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn tổng hợp lực to lớn để đua nền kinh tế vượt ra khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1928 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: Quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xất lớn của nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế còn mang nhiều tính chất tự túc, tự cấp thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; khẳng định sự cần thiết của quan hệ hàng hóa tiền tệ CNXH, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ kinh tế hàng hóa.
Đai hội VII của Đảng đã tiến thêm một bước nhận thức lý luận quy định: ''Cơ chế vận hành nềnkinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác “.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới, tại đại hội Đảng VIII ta đã khẳng định: Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan; và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Đến đại hội IX, Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'', khẳng định phát triển KTTT định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đây là mô hình phát triển KTTT mới trong lịch sử phát triển, có những đặc điểm chung của kinh tế hiện đại, vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Việt Nam đang trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn tổng hợp lực to lớn để đua nền kinh tế vượt ra khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp.
Nền kinh tế hàng hoá mở cửa tất yếu phải có sự quản lý của nhà nước. Trước thực trạng nền kinh tế nước ta, em chọn đề tài:"Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam " .
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
I. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
1.Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp:
a. Khái niệm:
Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là cơ chế vận hành nền kinh tế theo kế hoạch do Nhà nước đề ra tức là sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất bao nhiêu và sản xuất như thế nào do Nhà nước quyết định
b. Đặc trưng:
Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị cơ sở tức là quản lí kinh tế bằng mệnh lệnh phi kinh tế. Trung ương ra chỉ tiêu mang tính pháp lệnh cho cho các đơn vị cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm với những quyết định của mình
Không tôn trọng các qui luật kinh tế khách quan đặc biệt là các qui luật của kinh tế hàng hoá, xoá bỏ quan hệ hàng-tiền,thực hiện quan hệ hiện vật là chủ yếu
Hạch toán chỉ là hình thức vì thực hiện chế độ bao cấp theo giá,lương,tiền làm giá cả hành hoá không phản ánh đúng giá trị dẫn tới hiện tượng lãi giả, lỗ thật là phổ biến
Người lao động không quan tâm đến sản phẩm cuối cùng do đó chất lượng sản phẩm kém tạo ra nhu cầu giảm trong xã hội. Vì vậyhình thành nên bộ máy quan liêu cồng kềnh không có năng lực kinh doanh. Cơ chế này chủ trương xoá bỏ các thành phần kinh tế phi CNXH thực chất là xoá bỏ các điều kiện tiền đề của kinh tế hàng hoá,làm cho nền kinh tế trì trệ,đời sống khó khăn.
Chính vì vậy chúng ta phải xoá bỏ triệt để cơ chế này,chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
2.Cơ chế thị trường:
a.Khái niệm:
Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá theo yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan trên thị trường nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế là sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào.
b.Mặt tích cực và tiêu cực:
Tích cực:
Kích thích cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động, làm cho sản phẩm hàng hoá đa dạng dồi dào,phong phú, chất lượng tốt,giá thành hạ, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của xã hội và thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh
Tiêu cực:
+ Thường tạo ra sự ô nhiễm môi trường ngày càng cao,lạm dụng tài nguyên, chất thải không được xử lí...mà các doanh nghiệp không phải trả tiền cho sự ô nhiễm đó
+ Cơ chế thị trường là cạnh tranh, canh tranh tất yếu dẫn tới độc quyền,độc quyền làm cho cạnh tranh không hoàn hảo và gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội
+ Cơ chế thị trường không thể tránh khỏi khủng hoảng,thất nghiệp,lạm phát bởi cơ chế thị trường tạo ra sự phân phối bất bình đẳng trong xã hội ,phân hoá giàu nghèo ,suy đồi đạo đức của dân tộc.
II. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay.
Nền kinh tế thị trường luôn tồn tại dưới một thể chế chính trị, một chế độ chính trị. Mỗi Nhà nước đều có thể sử dụng nó theo quan điểm của mình để thực hiện những mục tiêu đặt ra. Kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản sau:
Tính pháp lý và tổ chức về tự do kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Vai trò của thị trường ngày càng quyết định đối với việc phân phối tài nguyên dưới sự quản lý và điều khiển vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước thực hiện một cách hài hoà nguyên tắc hỗ trợ về chính sách, pháp luật, tài chính, điều kiện vật chất, hạ tầng cơ sở... Tự do kinh tế nhưng không đồng nghĩa với thả nổi mà tự do kinh tế thị trường có quy tắc chặt chẽ. Nguyên tắc hợp tác dựa trên sự phụ thuộc của cá nhân vào xã hội. Kinh tế thị trường kết hợp với những nhân tố không kém phần quan trọng khác như truyền thống lịch sử, các quy tắc đạo đức, nền tảng gia đình - xã hội, tôn giáo... được cấu trúc vào cơ chế tự điều tiết của các phân hệ tự chủ của xã hội. Lĩnh vực tinh thần tạo ra những vật chuẩn giá trị và quy định hệ thống thứ bậc của các mục tiêu cho tương lai. Cơ sở đạo đức chính là cái trục để toàn bộ cơ cấu xã hội đứng vững và nếu không có nó chắc chắn cơ cấu ấy sẽ tan rã và rối loạn. Nó phụ thuộc vào lý tưởng chung của cộng đồng và phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của Nhà nước.
Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp nhà nước cũng đã được giải phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu thị trường. Cơ chế này cũng đã thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu, với sự thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của chính sách kinh tế nhiều thành phần; chuyển từ thái độ phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang chính sách đối xử bình đẳng; đồng thời cũng xác định biện pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta.
Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, tỷ giá từng bước đổi mới; đặc biệt cơ chế giá và tỷ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo ra bước ngoặt trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn. Đó chính là sản phẩm của một nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng và cơ bản là sản xuất nhỏ, sự yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước, tình trạng quan liêu cửa quyền, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ, bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế.
Trước hết, thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt những yếu kém trong thể chế tài chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi.
Cơ chế thị trường thiếu đồng bộ. Sự chuyển biến đã khá mạnh mẽ trên thị trường hàng hoá dịch vụ, trong khi đó lại có sự lạc hậu khá lớn trong thị trường các nhân tố sản xuất.
Thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo pháp luật, nhưng lại chưa giải quyết đầy đủ những tiền đề cơ bản cho sự tự do này đó là sự tự do về sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chưa tách được quyền sở hữu với quyền sử dụng của doanh nghiệp về vốn, tài sản và lao động.
Sự hình thành và vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế vận hành thô sơ tạo điều kiện cho bọn xấu làm ăn bất chính, cơ chế quản lý đổi mới thiếu triệt để hình thành" vùng tranh tối sáng " là mảnh đất màu mỡ của tệ nạn tham nhũng và các mặt tiêu cực của thị trường phát sinh và phát triển.
Nền kinh tế có đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các hình thức phân phối. Nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo và là nhân tố kinh tế đảm bảo cho sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước nắm những bộ phận then chốt có vị trí chi phối nền kinh tế, có tác dụng điều tiết thị trường và giá cả ở mức độ nhất định.
Nhà nước ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị; lấy ổn định chính trị làm tiền đề và tạo điều kiện cho cải cách kinh tế; mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước, nâng cao chất lượng hiệu quả, hiệu lực quản lý phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi. Tuy nhiên đã có những nhận thức mới về xã hội chủ nghĩa, khẳng định xã hội chủ nghĩa có thể sử dụng các công cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ...
Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường phù hợp với hoàn cảnh nước ta, không áp dụng các liệu pháp sốc vừa là đặc điểm vừ là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và các quan hệ kinh tế với bên ngoài nước ta đã áp dụng cơ chế thị trường từng bước không dùng liệu pháp sốc. Có thể nói cho đến nay đã có những yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường, dù chưa đầy đủ và hoàn thiện cơ chế này đã được nhân dân đồng tình và đã phát huy được tác dụng trong mọi mặt của đời sống kinh tế.
Từ thực tiễn quá trình đổi mới cũng xuất hiện hàng loạt các vấn đề mới, những yếu tố cản trở; đồng thời cũng phát triển thêm nhận thức, khẳng định các quan điểm quan trọng như quan điểm về chủ nghĩa xã hội, quan điểm về sở hữu... mà thiếu chúng thì không thể nào có cơ sở để hình thành một cơ chế vận hành nền kinh tế một cách đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Mặt khác, chúng ta không phủ định sạch trơn những kết quả đã đạt được của mô hình kinh tế cũ.
Nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta là nền kinh tế hoà nhập dân tộc với nền kinh tế quốc tế. Một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý, về lao động và về tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, nó làm cho nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào thị trường khu vực và thị trường thế giới, từ đó có điều kiện tiếp thu các yếu tố khoa học kỹ thuật hiện đại thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng hơn và hoàn thành tốt những mục tiêu kinh tế - xã hội.
Như vậy, chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nước ta có bước phát triển mới, đời sống nhân dân được cải thiện, bước đầu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội được củng cố. Việc xác định các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất phức tạp, cấp bách bởi lẽ nếu không có thị trường với các đặc trưng bản chất làm định hướng sẽ kéo dài tình trạng mò mẫm. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế hướng tới của nước ta và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước hết sức quan trọng và là tất yếu khách quan.
III.Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước
1.mục tiêu quản lý của nhà nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam . Mục tiêu khái quát của chiến lược đó là đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, phấn đấu vượt qua nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỉ XXI.
Xuất phát từ tình hình thực hiện công cuộc đổi mới trong những năm qua, cũng như những cơ hội và thách thức trong giai đoạn mới để thực hiện được những mục tiêu của " chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010 ta phải :
Phát huy những thành tựu đã đạt được, ra sức phấn đấu tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra những cơ sở vật chất và nguồn lực cho bước phát triển nhanh và bền vững về kinh tế , chặn đứng tiến tới đẩy lùi tiêu cực, bất công xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, củng cố an ninh quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị- xã hội phấn đấu thực hiện vượt mức các mục tiêu mà " Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010" đã xác định đưa đất nước cơ bản thoát khỏi tình trạng đói nghèo lạc hậu, tạo đà phát triển mạnh mẽ nhanh và bền vững vào những năm đầu của thế kỷ XXI.
Trước hết ta thấy mục đích đầu tiên là tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để có cơ sở đề ra các chính sách đúng và chỉ đạo có hiệu quả , cần tiếp tục cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục đích tăng trưởng cao và bền vững trên một số lĩnh vực sau đây:
Quan hệ giữa các định hướng phát triển dựa vào việc xuất khẩu tài nguyên thô hoặc sơ chế, dựa vào các nguồn lực bên trong, tự lực cánh sinh và thay thế nhập khẩu... với các yếu tố bên ngoài .
Theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực, trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, với sự hạn chế về quỹ đất và tài nguyên, sự dồi dào về nhân lực và giá nhân công rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, đòi hỏi và cho phép lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế theo định hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Tiếp theo là quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm đồng thời phát triển các vùng trong cả nước, trong giai đoạn trước mắt cần ưu tiên phát triển những ngành những vùng trọng điểm nhằm đạt được hiệu quả đầu tư cao và thu hồi vốn nhanh.
Ngoài ra còn quan tâm đến mối quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và công nghệ trung gian, xử lý thoả đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò của thông tin, quản lý chất xám trong nền kinh tế hiện đại.
Cuối cùng đi đôi với việc xác định chiến lược lâu dài, Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch cho từng thời kỳ. Nội dung kế hoạch và phương thức kế hoạch hoá của Nhà nước trong mô hình kinh tế mới được tổ chức theo hướng:
Kế hoạch hoá mang tính định hướng.Kế hoạch hoá không phải chỉ là giao chỉ tiêu để thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án.
Trên cơ sở có một mục tiêu đúng đắn , Nhà nước điều tiết, thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với thị trường thế giới. Hiện nay với sự chuyển đổi cơ chế mới tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khoảng từ 8-9%/năm. Mục tiêu của chúng ta trong những năm tới là duy trì và không ngừng nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế mới có cơ hội đuổi kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người/năm : Đây là một chỉ tiêu quan trọng cho phép đánh giá mức sống của người dân, sự phồn thịnh và giàu có của một quốc gia. Hiện nay nước ta có số dân trên 81 triệu người, mức tăng trưởng GDP đạt 8,4% mức cao nhất trong 5 năm nghị quyết đại hội IX. GDP đạt 640USD. Dầu khí đạt 18,5 triệu tấn, than đạt 32,6 triệu tấn, xuất khẩu gạo là hơn 5 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 32,2 tỷ USD
Tiếp theo mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu phải tạo ra đầy đủ công ăn việc làm cho xã hội . ở nước ta , nguồn nhân lực rất dồi dào. Hiện nay cả nước có 32.718.000 lao động. Tuy nhiên, trình độ của lao động còn thấp, 72% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Lao động có trình độ khoa học kỹ thuật, lao động có chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là đội ngũ công nhân kỹ thuật còn chiếm tỷ lệ thấp. Vì vậy về mặt này để đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng thì phải đảm bảo cho mọi người lao động có việc làm. Hiện nay lực lượng lao động không có việc làm ở nước ta còn chiếm tỷ trọng khá lớn, việc đảm bảo việc làm đang là một sức ép cho nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, không chỉ phụ thuộc vào đầu tư của ngân sách Nhà nước vốn rất eo hẹp, mà tiềm lực lớn nhất là sự đầu tư rộng rãi của dân cư trong mọi thành phần kinh tế . Điều đó đòi hỏi phải đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tạo ra môi trường để mọi thành phần kinh tế yên tâm đầu tư, tạo ra chỗ làm việc, thu hút lao động nhàn rỗi để tăng trưởng.
2.chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,nhà nước ở nước ta có các chức năng quản lý vĩ mô sau đây :
Một là, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo sự ổn định về chính trị , xã hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
Hai là,định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát, chống khủng hoảng , ngăn chừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế.
Bốn là, quản lý tài sản công và kiểm kê , kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội. Thực hiện đúng chức năngquản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của nhà nước. Các bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiệp.
Năm là, khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
VI. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta hiện nay.
Trong văn kiện đại hội Đảng lần VII đã xác định" Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng Nhà nước thực sự là của dân do dân và vì dân. Nhà nước đó thực hiện quyền lực xã hội, quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch " phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, chuyên chính với mọi hành động phá hoại là phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu để nâng cao năng lực quản lý Nhà nước. Nó vừa là nội dung cơ bản, cấp bách, vừa có ý nghĩa cách mạng sâu sắc trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý và thực tiễn quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước ta hiện nay.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của mình bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Vì vậy, cần thiết phải tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, hướng vào nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành, các vùng và toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển dài hạn, trung hạn. Nâng cao chất lượng các cân đối lớn và dự báo những khả năng và xu hướng phát triển làm cơ sở cho việc đề ra các mục tiêu kinh tế, các chính sách, giải pháp và định hướng về phân bổ nguồn lực để thực hiện.
Nâng cao chất lượng xây dựng, thẩm định các dự án đầu tư. Thiết lập quy chế kết hợp chặt chẽ việc xây dựng kế hoạch, quy hoạch với việc hoạch định chính sách và thể chế để dẫn dắt, điều hành nền kinh tế theo định hướng kế hoạch, xử lý kịp thời những mất cân đối và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Tiếp tục cải cách và xây dựng hệ thống tài chính, tiền tệ thành công cụ điều tiết vĩ mô nhạy bén và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Các chính sách tài chính phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển; đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên thật sự cần thiết, cấp bách; bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia; giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát. Xử lý đúng đắn các mối quan hệ: tích luỹ và tiêu dùng; tài chính nhà nước; tài chính doanh nghiệp và tài