Đề tài Vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với việc thành lập mới các Ngân hàng thương mại cổ phần

Năm 2007 đã bắt đầu, nước ta đã tiến thêm một bước dài trên con đường phát triển kinh tế trong kế hoạch phát triển từ 2000 – 2020. Chúng ta đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ những ngày cuối năm 2006. Sự kiện đó đánh dấu một cơ hội lớn và thách thức lại càng lớn hơn nữa khi chúng ta phải chấp nhận những luật lệ quốc tế và mở cửa tạo điều kiện cho các công ty, tập đoàn lớn của thế giới xâm nhập vào thị trường Việt Nam nhưng cũng là cơ hội cho các Doanh nghiệp trong nước tham gia vào các thị trường lớn trên thế giới khi các hạn ngạch xuẩt khẩu được rỡ bỏ. Còn một sự kiện là Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC vào trung tuần tháng 11 năm 2006. Sự kiện đã thu hút được sự chú ý của toàn thế giới. Qua sự kiện đó bộ mặt đất nước đã thay đổi khá nhiều trong con mắt nhà đầu tư nước ngoài. Qua đó họ thấy được những thế mạnh phát triển của đất nước như con người, môi trường kinh tế, tài nguyên và hơn nữa là có tình hình an ninh, chính trị ổn định, vững chắc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh tế lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam. Theo đánh giá sơ bộ thì có 3 lĩnh vực mà sẽ bị ảnh hưởng sớm nhất đó là lĩnh vực Ngân hàng, lĩnh vực bán lẻ và lĩnh vực công nghệ bưu chính viễn thông. Theo đó các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới sẽ đổ một khối lượng vốn rất lớn vào Việt Nam để đầu tư vào tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế thông qua kênh phân phối chính là các Ngân hàng thương mại ( NHTM). Cùng với đó là sự xuất hiện của vô số các NHTM nước ngoài xâm nhập vào thị trường tài chính Việt Nam. Bên cạnh sự xuất hiện của vô số các NHTM của nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam là sự thành lập của vô số các Ngân hàng thương mại cổ phần ( NHTMCP) trong nước. Năm 2006 là một năm phát triển bùng nổ của các NHTM, thị trường chứng khoán cũng như công ty chứng khoán của các NHTM. Các ngân hàng liên tục tăng vốn qua niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và góp vốn đầu tư của các cổ đông. Cuối năm lợi nhuận của các NHTM lớn hơn rất nhiều so với tổng kết của năm 2005. Các NHTM chia lãi cổ tức cũng rất lớn điều đó thu hút đầu tư của các nhà đầu tư trong nước. Vì vậy năm 2007 hứa hẹn là một năm phát triển rất nóng của thị trường tài chính trong nước. Căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay, với sự gia tăng việc thành lập các Ngân hàng mới hiện nay. Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) phải có những biện pháp và những quy định cụ thể để những NHTMCP này có thể phát triển và đứng vững trong điều kiện sự xâm nhập mạnh mẽ của các Ngân Hàng và các tập đoàn tài chính mạnh trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh những biện pháp đó NHNN phải có những chính sách hỗ trợ hợp lý phù hợp với những quy định của Quốc Tế nhằm tăng cường sự phát triển của hệ thống NHTM vững mạnh có khả năng cạnh tranh ngang hàng với các NH lớn trong khu vực và thế giới. Và một lý do quan trọng khác là: NHNN phải đưa ra những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của các khách hàng cũng như những quy định chống cạnh tranh không lành mạnh giữa các Ngân hàng.

doc29 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1998 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với việc thành lập mới các Ngân hàng thương mại cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói Đầu. Năm 2007 đã bắt đầu, nước ta đã tiến thêm một bước dài trên con đường phát triển kinh tế trong kế hoạch phát triển từ 2000 – 2020. Chúng ta đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ những ngày cuối năm 2006. Sự kiện đó đánh dấu một cơ hội lớn và thách thức lại càng lớn hơn nữa khi chúng ta phải chấp nhận những luật lệ quốc tế và mở cửa tạo điều kiện cho các công ty, tập đoàn lớn của thế giới xâm nhập vào thị trường Việt Nam nhưng cũng là cơ hội cho các Doanh nghiệp trong nước tham gia vào các thị trường lớn trên thế giới khi các hạn ngạch xuẩt khẩu được rỡ bỏ. Còn một sự kiện là Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị cấp cao APEC vào trung tuần tháng 11 năm 2006. Sự kiện đã thu hút được sự chú ý của toàn thế giới. Qua sự kiện đó bộ mặt đất nước đã thay đổi khá nhiều trong con mắt nhà đầu tư nước ngoài. Qua đó họ thấy được những thế mạnh phát triển của đất nước như con người, môi trường kinh tế, tài nguyên và hơn nữa là có tình hình an ninh, chính trị ổn định, vững chắc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh tế lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam. Theo đánh giá sơ bộ thì có 3 lĩnh vực mà sẽ bị ảnh hưởng sớm nhất đó là lĩnh vực Ngân hàng, lĩnh vực bán lẻ và lĩnh vực công nghệ bưu chính viễn thông. Theo đó các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới sẽ đổ một khối lượng vốn rất lớn vào Việt Nam để đầu tư vào tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế thông qua kênh phân phối chính là các Ngân hàng thương mại ( NHTM). Cùng với đó là sự xuất hiện của vô số các NHTM nước ngoài xâm nhập vào thị trường tài chính Việt Nam. Bên cạnh sự xuất hiện của vô số các NHTM của nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam là sự thành lập của vô số các Ngân hàng thương mại cổ phần ( NHTMCP) trong nước. Năm 2006 là một năm phát triển bùng nổ của các NHTM, thị trường chứng khoán cũng như công ty chứng khoán của các NHTM. Các ngân hàng liên tục tăng vốn qua niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và góp vốn đầu tư của các cổ đông. Cuối năm lợi nhuận của các NHTM lớn hơn rất nhiều so với tổng kết của năm 2005. Các NHTM chia lãi cổ tức cũng rất lớn điều đó thu hút đầu tư của các nhà đầu tư trong nước. Vì vậy năm 2007 hứa hẹn là một năm phát triển rất nóng của thị trường tài chính trong nước. Căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay, với sự gia tăng việc thành lập các Ngân hàng mới hiện nay. Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) phải có những biện pháp và những quy định cụ thể để những NHTMCP này có thể phát triển và đứng vững trong điều kiện sự xâm nhập mạnh mẽ của các Ngân Hàng và các tập đoàn tài chính mạnh trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh những biện pháp đó NHNN phải có những chính sách hỗ trợ hợp lý phù hợp với những quy định của Quốc Tế nhằm tăng cường sự phát triển của hệ thống NHTM vững mạnh có khả năng cạnh tranh ngang hàng với các NH lớn trong khu vực và thế giới. Và một lý do quan trọng khác là: NHNN phải đưa ra những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của các khách hàng cũng như những quy định chống cạnh tranh không lành mạnh giữa các Ngân hàng. Trong khuân khổ một đề án, em xin trình bày những vấn đề chung nhất về sự thành lập một Ngân hàng mới, và vai trò quản lý của nhà nước, ngân hàng nhà nước trước tình hình đó. Với đề tài: “Vai trò quản lý của Ngân Hàng nhà nước đối với việc thành lập mới các Ngân Hàng Thương Mại cổ phần.”. Do hạn chế về kiến thức, lượng thông tin nên đề án còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp bổ xung của thầy giáo Nguyễn Anh Tuấn G.V hướng dẫn em làm đề án này để đề án hoàn chỉnh hơn. Phần 1, Lý thuyết về NHTM và thành lập mới một NHTM. Khái quát chung về NHTM. 1.1.1 Khái niệm NHTM. Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng rất đa dạng, bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế, trong đó ngân hàng thương mại chiếm tỉ trọng lớn nhất với quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong mọi nền kinh tế. Trong đó, chủ thể là các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Thu nhập từ ngân hàng có khi là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều gia đình, đối với các Doanh nghiệp thì Ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá, dự trữ hoặc xây nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi các cá nhân, doanh nghiệp cần thanh toán các khoản tiền mua hàng hoá và dịch vụ họ thường dùng Séc, thẻ tín dung hay tài khoản điện tử....Khi họ cần những thông tin tài chính, cần tư vấn lập kế hoạch kinh doanh họ sẽ tìm đến Ngân hàng. Trong nền kinh tế, Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất, ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc bịêt là các chính sách tiền tệ, vì vậy nhờ Ngân hàng chính phủ có thể ổn định nền kinh tế bằng các chính sách tiền tệ của mình. Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Để đưa ra được định nghĩa chính xác về ngân hàng là rất khó nhưng có thể định nghĩa Ngân hàng thông qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi:” Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và các dịch vụ thanh toán.” Qua cách tiếp cận Ngân hàng trên phương diện những loại hình mà chúng cung cấp:” Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” Nhưng thực tế hiện nay, trong nền kinh tế thị trường rất nhiều các dịch vụ đa dạng của nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của Ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh( các tổ chức tài chính phi Ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. 1.1.2 Chức năng của NHTM. 1.1.2.1 Trung gian tài chính. Như trong phần khái niệm về Ngân hàng thì Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với 2 lại chủ thể: (1) Các cá nhân và các tổ chức có thặng dư trong chi tiêu, khi họ có thu nhập cao hơn mức tiêu dùng của họ dẫn đến họ có thặng dư ( thường là thặng dư tiền). Do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Các cá nhân và các tổ chức bị thâm hụt trong chi tiêu, tức là đầu tư và tiêu dùng lớn hơn thu nhập của họ, vì vậy họ là những người cần bổ xung vốn. Sự tồn tại của 2 loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (1) sang nhóm thứ (2) nếu cả 2 cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa 2 nhóm. Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là làm thế nào để tiền từ nhóm (2) có thể được đưa về nhóm (1). Những người cần vốn làm sao để có thể tìm được những người có thặng dư về chi tiêu do giới hạn về thời gian, không gian về quy mô.... Và quan trọng là lấy gì để đảm bảo rằng người có tiền sẽ cho người khác vay tiền. Vì vậy vai trò của Ngân hàng ở đây là trung gian tài chính. Người có tiền sẽ tin vào Ngân hàng và thông qua ngân hàng để tiền của mình có thể đến đúng địa chỉ. Và người cần vốn cũng có một địa chỉ để có thể tìm kiếm nguồn vốn thường xuyên và an toàn. Trong khi đó, Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Và thực tế là các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Một lý do nữa làm cho các ngân hàng phát triển ổn định và thịnh vượng là họ có khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ thông tin không đều và năng lực phân tích thông tin trên thị trường dẫn đến tình trạng “ thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng vì ngân hàng có chuyên môn và các công cụ đánh giá các thông tin để đưa ra khả năng lựa chọn các yếu tố rủi ro - lợi nhuận hấp dẫn nhất. 1.1.2.2 Tạo phương tiện thanh toán. Trước khi có sự xuất hiện của ngân hàng thì con người vẫn quen với tiền kim loại như vàng, bạc, kim loại quý...Sau khi có các ngân hàng thợ vàng tạo ra các giấy nhận nợ với khách hàng. Và khi giấy nhận nợ được ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán đầu tiên. Với nhiều ưu thế, dần dần, giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại là phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó đã trở thành tiền tệ. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời nhu cầu mỗi nước muốn có đồng tiền riêng đặc trưng cho quốc gia của mình, từ đó việc in tiền tập trung vào một tổ chức hoặc bộ tài chính hoặc ngân hàng trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc riêng của mình. Trung gian thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá, dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán, như thanh toán bằng Séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp các mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá, góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 1.1.3 Các dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng được coi là một doang nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ cho công chúng và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải xác định được nhu cầu của xã hội về những dịch vụ mà mình đưa ra nhằm thực hiện có hiệu quả một cách tối đa. Mua bán ngoại tệ: Một trong những dịch vụ đầu tiên phải kể đến của ngân hàng là mua bán ngoại tệ, do nhu cầu của các nhà đầu tư vào Việt Nam cần VNĐ nên họ bán ngoại tệ của mình, hay những nhà nhập khẩu ở Viêt Nam cần mua hàng hoá nước ngoài nên cần đổi nội tệ sang ngoại tệ. Hoặc đơn giản hơn là nhu cầu của các khách du lịch nên họ cần đổi tiền. Ngân hàng đứng ra mua bán từ loại tiền này sang loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính hiện nay thì việc mua bán ngoại tệ thường do các ngân hàng lớn thực hiện bởi những giao dịch như vậy thường có rủi ro cao và cần một trình độ chuyên môn cao. Nhận tiền gửi: Ngân hàng luôn luôn cần một lượng tiền lớn để cho vay, do đó ngân hàng cũng phải huy động được một lượng tiền tương đương với lượng tiền cho vay đó. Do vậy ngân hàng luôn luôn tích cực trong việc khuyến khích khách hàng gửi tiền. Ngân hàng nhận tiền gửi của những người có thặng dư chi tiêu với cam kết sẽ trả đúng hạn. Ngân hàng coi lãi của khoản tiền gửi đó như phần thưởng mà ngân hàng trả cho khách hàng do họ đã hy sinh sự tiêu dùng trong trước mắt để cho ngân hàng có thể tạm thời dùng số vốn của họ để kinh doanh. Các ngân hàng phải canh tranh nhau khốc liệt nhằm thu hút sự chú ý, tin tưởng cũng như quyết định gửi khoản tiền của mình vào một ngân hàng. Hiện tại có rất nhiều cách để ngân hàng tăng cường thu hút tiền gửi Ví dụ: Ngân hàng Nông nghiệp Agribank: dự thưởng vàng miếng có chữ A Hay Ngân hàng ngoại thương có thưởng lãi suất cho các chứng chỉ tiền gửi có giá trị cao….. Cho vay: * Cho vay thương mại: Ngân hàng cho người mua vay tiền để họ có tiền mua và dự trữ hàng hoá. * Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng thường không hay cho người tiêu dùng vay tiền vì rủi ro khá cao nhưng hiện nay do sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay của các ngân hàng nên buộc các ngân hàng phải hướng đến người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. * Tài trợ cho dự án: Bên cạnh các khoản cho vay ngắn hạn và trung hạn thì ngân hàng con cho vay các khoản vay dài hạn, ngân hàng ngày càng trở nên năng động hơn trong tài trợ cho các dự án. Tuy rằng loại tài trợ này rủi ro rất cao nhưng lợi nhuận khổng lồ đã khiếm cho các ngân hàng không thể đứng ngoài cuộc. Thậm chí còn có các ngân hàng cho vay để đầu tư vào đất, bất động sản. Bảo quản vật có giá: Ngày nay do điều kiện thuận lợi là lưu giư tiền cần an ninh tốt nhất nên các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, trang sức, đá quý và các vật có giá khác của khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ đồ và giao lại cho khách hàng giấy biên nhận. Khách hàng có thể lấy bất cứ lúc nào với tờ giấy biên nhận của mình nhưng phải trả một khoản phí cho ngân hàng. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Khi các thương gia gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chi thực hiện việc bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả thanh toán cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng họ có quyền viết giấy thanh toán cho khách hàng ( Sec) và khách hàng cầm tờ Sec đó đến ngân hàng và được ngân hàng thanh toán quy ra tiền mặt. Khi ngân hàng mở rộng quy mô, liên tục gia tăng các chi nhánh tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nhân khi thanh toán. Vì vậy, càng khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng va nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng máy, điện, thẻ…. Ngoài ra ngân hàng còn có rất nhiều các dịch vụ khác như: Quản lý ngân quỹ, tài trợ cho các hoạt động của chính phủ, bảo lãnh, cho thuê các thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý. 1.1.4 Các nhân tố tác động tới NHTM. - Chính phủ thực hiện chính sách giảm bao cấp và can thiệp trực tiếp. - Sự phát triển chu cầu dịch vụ tài chính. - Xu hướng đa dạng hoá trong môi trường hội nhập quốc tế. - Sự gia tăng cạnh tranh trên thị trường tài chính. - Yêu cầu tăng vốn. - Khả năng “ di chuyển “ của khách hàng làm gia tăng tính nhạy cảm với lãi xuất của tài sản và nguồn vốn. - Cách mạng trong công nghệ ngân hàng. 1.2 Cơ sở lý thuyết về thành lập mới một NHTM. 1.2.1 Cơ sở thực tiễn. Trong tình hình thực tế hiện nay, nhu cầu huy động vốn của các Doanh nghiệp là vô cùng lớn để đáp ứng nhu cầu đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các Doanh nghiệp lớn, có uy tín thường cổ phần hoá, phát hành cổ phiếu hay tự huy động vốn nhưng các Doanh nghiệp nhỏ thì không thể làm điều đó hay chính các Doanh nghiệp lớn cung không thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn của mình khi tự huy động. Vì vậy các Doanh nghiệp đương nhiên phải tìm đến ngân hàng như một cách tìm nguồn tiền thường xuyên và ổn định nhất. Và chính vì nhu cầu lớn đó đòi hỏi các NHTM phải tăng cường mở rộng quy mô, tăng vốn hoặc là cơ hội cho các nhà đầu tư, nhà tài chính mở NHTMCP. Hơn nữa hiện nay các tập đoàn kinh tế lớn trong nước như Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, Điện lực Việt Nam (EVN) hay tập đoàn dầu khí, tập đoàn bảo hiểm, Tổng công ty XD Sông đà….. đang đứng trước nhu cầu về vốn và trong tay cũng có đầy đủ những yêu cầu để thành lập một NHTM CP. Và có vẻ đi cùng với thành công của NHTM CP Quân Đội thì không sớm thì muộn những Tổng công ty hay tập đoàn này sẽ nhảy vào lĩnh vực tài chính đầy cơ hội và hấp dẫn này. Nhưng hiện nay, chính NHNN cần phải cân nhắc cấp giấy phép thành lập cho các NHTMCP vì có rất nhiều NHTM mới thành lập có kết quả kinh doanh không mấy khả quan.Theo “ báo điện tử diendandoanhnghiep” thì họ đã có cuộc phỏng vấn với thống đốc NHNN Vịêt Nam bài viết có tựa đề “ Hạn chế thành lập Ngân Hàng mới (13/04/2006)” . Nội dung bài phỏng vấn: “Ngân hàng nhà nước (NHNN) đang gấp rút xây dựng quy định về quản trị ngân hàng. Theo chủ trương này, NHNN sẽ hạn chế thành lập các ngân hàng mới, thay vào đó là củng cố nâng cao chất lượng của hệ thống ngân hàng đang hoạt động. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, DĐDN đã có cuộc PV Thống đốc NHNN Lê Đức Thuý. - Hiện nay, một số TCty lớn chuyển sang tập đoàn đều có chủ trương thành lập ngân hàng mới. Nhưng với quy chế đang soạn thảo, NHNN lại hạn chế thành lập các ngân hàng mới. Tại sao vậy, thưa Thống đốc? Chúng ta đã mở cửa cho đối tác nước ngoài, vậy không lý do gì lại khép cửa đối với các nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên, kinh doanh ngân hàng là kinh doanh có điều kiện, nó gắn liền với sự ổn định an toàn của hệ thống nền kinh tế,vì vậy không phải ai muốn kinh doanh ngân hàng cũng được. Hai năm vừa qua hoạt động ngân hàng có lợi nhuận cao, do vậy nhiều người đang muốn nhảy vào kinh doanh lĩnh vực này mà không hiểu được rằng các ngân hàng đã phải trả giá rất đắt mới đạt được kết quả hiện nay. Tôi lấy ví dụ không ít ngân hàng như VP Bank mới được chấm dứt kiểm soát đặc biệt 1 năm qua, rồi Eximbank nợ quá hạn 1.200 tỷ, đến nay vẫn tồn đọng cần xử lý tiếp, và thậm chí nhiều ngân hàng không chia lợi tức cổ đông trong suốt 5 - 10 năm. Số ít ngân hàng mới có lợi nhuận 2 - 3 năm vừa qua tương đối tốt. Vì vậy, muốn kinh doanh ngân hàng đừng ảo tưởng về lợi nhuận của ngân hàng. Đối với NHNN, chúng tôi đã phải đóng cửa rút giấy phép, sáp nhập và xử lý rất nhiều hậu quả nặng nề từ 53 ngân hàng cổ phần xuống còn 36. Hiện nay, chúng tôi chưa hoàn toàn yên tâm với bộ máy này. Sự phát triển tiếp tục của những tổ chức tín dụng theo tôi đòi hỏi quan trọng nhất là nguồn nhân lực. Những người quản trị ngân hàng có kinh nghiệm biết quản lý rủi ro và phải có bộ máy kiểm soát kiểm tra chặt chẽ mới hạn chế được rủi ro. Do vậy, không phải các tập đoàn cứ có tiền là có thể kinh doanh ngân hàng được. - Theo quy chế mà NHNN đang soạn thảo thì các tổ chức muốn thành lập ngân hàng mới phải có vốn 1.000 tỷ đồng, tương đương với ngân hàng cổ phần cỡ lớn của VN. Vậy quy định này có quá chặt không, thưa Thống đốc? Thực ra, việc tái cơ cấu hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước và cổ phần hiện đang được tiếp tục. Theo đó, hàng loạt tiêu chuẩn quốc tế đang được NHNN đưa vào để các ngân hàng tuân thủ nhằm mục tiêu xa hơn là hội nhập, chứ không chỉ lành mạnh hoá và nâng cao độ an toàn như trước đây. Trong bối cảnh việc kiện toàn hệ thống đang còn dở dang thì việc cấp phép đương nhiên cũng đang được chúng tôi xem xét xây dựng đưa vào quy chế. Hơn nữa, nếu thành lập thêm các ngân hàng mới thì những tiêu chuẩn cao sẽ được xem xét áp dụng với mục tiêu là nếu thành lập thêm các tổ chức tín dụng mới thì những tổ chức này sẽ phải hoạt động có hiệu quả. Một điều kiện quan trọng nhất - theo tôi đó là vốn của các tổ chức này rất cao. Dự kiến một ngân hàng mới thành lập sẽ có vốn ít nhất là 1.000 tỷ đồng, tương đương với vốn điều lệ của ngân hàng cỡ lớn như Sacombank, ACB... Đó là chưa nói tới một số tiêu chuẩn khác về chất lượng quản trị điều hành, công nghệ...” Qua bài phỏng vấn trên thì đã lộ rõ được những khó khăn mà một NHTMCP mới thành lập gặp phải và khó khăn để một tổ chức, tập đoàn có tiềm lực về tài chính có thể thành lập một NHTM và quản lý tốt hoạt động của các NHTM. Thực tế cho thấy có rất ít các NHTMCP mới thành lập mà có thể thu hút sự quan tâm và lòng tin của khách hàng đến gửi tiền và gửi tiết kiệm. Như NHTM CP Toàn Cầu ( G- Bank) với những
Luận văn liên quan