Đề tài Vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình ở Việt Nam hiện nay

Trẻ em là mầm non của mỗi nước và là vấn đề được nhân loại hết sức quan tâm. Ở nước ta, vẫn còn bị ảnh hưởng rất nặng nề tư tưởng trọng nam, khinh nữ tình trạng phân biệt đối xử với trẻ em gái vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở nông thôn và thành thị, từ trong gia đình ra ngoài xã hội ở mức độ khác nhau. Luật bình đẳng giới năm 2006 ra đời phần nào xóa giảm sự bất bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình, xã hội. Việc quan tâm, chăm lo, giáo dục, sự không phân biệt đối xử giữa trẻ em trai và trẻ em gái của gia đình và xã hội sẽ giúp thế hệ trẻ có hành trang vững chắc bước vào đời. Để tìm hiểu rõ vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em sau đây em xin viết bài tiểu luận về đề tài: “Vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình hiện nay”.

doc13 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3387 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trẻ em là mầm non của mỗi nước và là vấn đề được nhân loại hết sức quan tâm. Ở nước ta, vẫn còn bị ảnh hưởng rất nặng nề tư tưởng trọng nam, khinh nữ tình trạng phân biệt đối xử với trẻ em gái vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở nông thôn và thành thị, từ trong gia đình ra ngoài xã hội ở mức độ khác nhau. Luật bình đẳng giới năm 2006 ra đời phần nào xóa giảm sự bất bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình, xã hội. Việc quan tâm, chăm lo, giáo dục, sự không phân biệt đối xử giữa trẻ em trai và trẻ em gái của gia đình và xã hội sẽ giúp thế hệ trẻ có hành trang vững chắc bước vào đời. Để tìm hiểu rõ vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em sau đây em xin viết bài tiểu luận về đề tài: “Vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình hiện nay”. NỘI DUNG I. Một số khái niệm 1. Khái niệm bình đẳng giới Theo tài liệu, Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới, nam và nữ có vị thế bình đẳng và đều được tôn trọng như nhau. Nam và nữ cùng: có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực, lợi ích của sự phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng. Dưới góc độ Luật bình đẳng giới, theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật bình đẳng giới năm 2006: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình trong sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau thành quả của sự phát triển”. 2. Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình Bình đẳng giới trong gia đình thực chất là bình đẳng giữa vợ, chồng, con trai, con gái, nam-nữ về cơ hội, vị trí, vai trò trong đó bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn nhân lực, bình đẳng trong thù lao công việc, bình đẳng trong việc thụ hưởng các thành quả và bình đẳng trong các vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội. Điều đó có nghĩa là đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình giúp cho nam-nữ đều được tạo cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của gia đình, cộng đồng và xã hội. Như vậy, bình đẳng giới giữa em trai và em gái trong gia đình được hiểu là trong gia đình giữa trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng trong việc được chăm sóc bảo vệ quyền được sống, bình đẳng về quyền được học tập, bình đẳng trong việc thực hiện các công việc trong gia đình, bình đẳng về quyền được nghỉ ngơi, được vui chơi và tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí phù hợp với lứa tuổi. Các thành viên khác trong gia đình không được có hành vi phân biệt đối xử giữa trẻ em trai và trẻ em gái. II. Những nội dung cơ bản của bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình hiện nay Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trẻ em là những người dưới 18 tuổi. Gia đình đóng vai trò quan trọng, cơ bản trong việc hình thành nhận thức, thái độ về các quan hệ giới. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình sẽ là cơ hội tốt, là đòn bẩy quan trọng để tăng cường khả năng nhận thức bình đẳng giới của mỗi cá nhân đồng thời cũng là yếu tố đảm bảo bình đẳng giới của mỗi cá nhân, góp phần thúc đẩy sự phát triển của gia đình và xã hội. Trẻ em khi sinh ra có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, học tập và tham gia vui chơi, giải trí… Tại khoản 4 Điều 18 Luật bình đẳng giới năm 2006 đã quy định: “con trai và con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục, và tạo điều kiện học tập, lao động, vui chơi giải trí và phát triển. Do đó, nội dung của bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình thể hiện ở những khía cạnh sau: - Trong gia đình, trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng trong việc đảm bảo quyền được sống. Tại khoản 2 Điều 5 Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ. Giới tính mang tính chất bẩm sinh được hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở di truyền, là sản phẩm của quá trình tiến hóa tự nhiên về sinh học của con người không bị thay đổi theo thời gian và môi trường xã hội. Khi sinh ra trẻ em không phân biệt trẻ em trai và trẻ em gái đều có quyền được sống, bình đẳng về quyền được tôn trọng thân thể và nhân phẩm. Gia đình phải áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ trẻ em trai và trẻ em gái khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác hoặc tinh thần; không phân biệt đối xử, gây tổn thương hay xúc phạm, ngược đãi trẻ em. Cha mẹ và những người khác trong gia đình có trách nhiệm bảo đảm điều kiện sống cần thiết cho sự phát triển của trẻ em trai cũng như trẻ em trai. - Quyền bình đẳng về học tập giữa trẻ em trai và trẻ em gái. Quyền học tập là một quyền cơ bản của trẻ em. Theo quy định tại Điều 33 Luật bình đẳng giới năm 2006 thì gia đình phải đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau cho con trai và con gái trong học tập. Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với trẻ em là môi trường quan trọng giúp mỗi con người hòa nhập vào cộng đồng và xã hội, thích ứng với đòi hỏi về nghề nghiệp, đạo đức, vốn sống của mỗi con người; sự quan tâm của họ đối với trẻ em còn giúp cho con cái tránh những tệ nạn xã hội nảy sinh đối với mỗi con người. Quá trình xã hội hóa giáo dục được tạo bởi ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người; sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau của mỗi thành viên trong gia đình giúp mỗi con người có điều kiện phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Trẻ em trong gia đình được cha mẹ tạo điều kiện được học tập, giữa trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng với nhau về độ tuổi đi học. Nghĩa là theo thông thường, trẻ em khi tới 5 tuổi sẽ đi học trường mầm non thì cả trẻ em trai và trẻ em gái khi đủ 5 tuổi đều được phải được gia đình tạo điều kiện cho đến trường học tập. Các thành viên khác trong gia đình không được đối xử không công bằng, thiên vị giữa trẻ em trai và trẻ em gái về độ tuổi được đến trường học tập. Ví dụ như: khi trẻ em trai đến 5 tuổi thì được gia đình tạo mọi điều kiện học tập nhưng trẻ em gái lại không được cho đi học trường mầm non mà cho nghỉ ở nhà. Dẫn đến có nhiều em gái không được đi học trường mầm non khi đi học tiểu học tiếp thu chậm hơn so với trẻ em trai được đi học từ trường mầm non. Hiện nay, tại Điều 16 Luật chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định trẻ em học tiểu học trong các cơ sở công lập không phải đóng học phí. Điều này thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đảm bảo bình đẳng về học tập giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa trẻ em ở nông thôn, vùng dân tộc thiểu số so với trẻ em ở thành thị. Trẻ em trai và trẻ em gái được tạo điều kiện học tập ở môi trường an toàn, gần gũi và không phân biệt đối xử với tất cả các trẻ em thuộc mọi thành phần khác nhau, là môi trường để trẻ phát triển về sức khỏe, lợi ích và tinh thần. Đảm bảo bình đẳng nâng cao quyền lợi của các trẻ em gái trong việc nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. - Bình đẳng về quyền chăm sóc y tế giữa trẻ em trai và trẻ em gái. Trẻ em có quyền ngang nhau trong việc được hưởng sự quan tâm, chăm sóc của gia đình. Hiện nay, việc chăm sóc cho trẻ em đã được luật hóa trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Gia đình không được bỏ mặc, sao nhãng trong sự chăm sóc đối với trẻ em gái. Trẻ em là trai hay gái bị tàn tật về tinh thần hay thể chất đều được chăm sóc, được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và tử tế. Điều đó có nghĩa không có trẻ em nào dù là trẻ em gái, trẻ em tàn tật… bị tước đoạt quyền được hưởng sự quan tâm chăm sóc của gia đình và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Dù là trẻ em trai hay trẻ em gái trong gia đình đều được hưởng chăm sóc chế độ dinh dưỡng phù hợp với lứa tuổi như nhau. - Bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong việc thực hiện các công việc trong gia đình. Điều này có nghĩa là giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình bình đẳng với nhau trong việc thực hiện c.ác công việc của gia đình. Các thành viên khác trong gia đình phân công đồng đều các công việc phù hợp với lứa tuổi cho trẻ em trai và trẻ em gái như nhau. - Trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng với nhau về thời gian nghỉ ngơi, được vui chơi và tham gia các hoạt động giải trí, văn hóa và nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi. Gia đình tạo điều kiện cho trẻ em trai cũng như gái có thời gian nghỉ ngơi hợp lý, được vui chơi và tham gia các hoạt động khác như nhau. - Có một số trẻ em đang đi học vẫn tham gia vào làm việc cùng gia đình. Do đó, giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình còn bình đẳng với nhau về tiền lương mà chúng được hưởng với cùng một lượng thời gian, khối lượng công việc như nhau III. Thực trạng về vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình hiện nay 1.Thành tựu Ngày nay, mặc dù những định kiến giới vẫn còn tồn tại, nhưng vị trí, vai trò của phụ nữ và trẻ em gái nói chung trong gia đình và xã hội đã được nâng lên so với trước. Cùng với sự phát triển của xã hội nhiều chuyên ngành khoa học ra đời trong đó có khoa học giới và các khoa học có liên quan như Tâm lý học, Xã hội học, Dân số học… nghiên cứu tiếp cận các vấn đề giới dưới nhiều góc độ khác nhau, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về giới trong sự phát triển của xã hội. Có thể nhận thấy khoa học giới ra đời là cơ sở quan trọng để nghiên cứu các vấn đề giới trong gia đình và xã hội, là cơ sở để hoạch định chính sách, ban hành các văn bản pháp luật về vấn đề bình đẳng giới. Những quan điểm và chủ trương, chính sách, Pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề bình đẳng giới đã được ban hành như Hiến pháp, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Bình đẳng giới… Trong nhiều năm nay, Việt Nam dẫn đầu khu vực Châu Á- Thái Bình Dương về các chỉ số về bình đẳng giới qua việc cung cấp các dịch vụ y tế - giáo dục tới trẻ em trai và trẻ em gái. Đến nay, các tỉnh đều có trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em từng bước đẩy lùi. Sự ra đời của pháp lệnh dân số, Luật bình đẳng giới, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã giúp các gia đình ở cả thành thị và nông thôn có nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới. Từ đó, trong các gia đình tình trạng phân biệt đối xử giữa trẻ em trai và trẻ em gái giảm đi đáng kể. Nhiều gia đình mặc dù sinh hai bé gái nhưng vẫn thực hiện chính sách kế hoạch hóa không sinh thêm con nữa để đảm bảo đời sống tốt, chăm sóc và giáo dục trẻ. Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách đi học ở các trường tiểu học công lập không phải đóng phí để tạo điều kiện cho trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình đều được đến trường học tập như nhau. Số lượng học sinh phổ thông từ năm 2000 đến 2009, số trẻ em gái đi học cấp III có tăng lên. Đây là một dấu hiệu tích cực để đánh giá sự bình đẳng trong học tập. Gia đình ở nông thôn và các vùng dân tộc thiểu số đã quan tâm tới việc học tập của cả trẻ em gái cũng như trẻ em trai. Nên số lượng trẻ em gái được tham gia học tập cũng tăng lên. Trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với trẻ em nam trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ trẻ em gái biết chữ trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về số trẻ em trai và trẻ em gái trong tất cả các cấp bậc được thu hẹp (báo cáo quốc gia của Việt Nam, tháng 8 năm 2005 đã khẳng định điều này). Trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình đã được đảm bảo các quyền được sống, học tập, chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi và tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí…Ngoài ra, nhà nước đã thể hiện nhiều chính sách quan tâm tới những trẻ em tàn tật giúp trẻ hòa đồng với cộng đồng và xã hội. 2.Hạn chế - Trong việc đảm bảo quyền sống của trẻ em. Hiện nay, đa số người dân khi có bầu họ sẵn sang đến các phòng khám tư nhân để siêu âm giới tính thai nhi – mặc dù việc này đã bị nghiêm cấm. Nhiều trường hợp khi phát hiện thai nhi là bé gái họ không ngần ngại bỏ đi để chờ lần sau là con trai. Tình trạng nạo phá thai, lựa chọn giới tính của thai nhi trước khi sinh đã làm cho nhiều đứa trẻ khi còn trong bụng mẹ đã bị tước đoạt quyền được sinh ra và được sống. Phần lớn do áp lực từ phía gia đình. Do nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng bởi ý thức của hệ tư tưởng phong kiến “trọng nam kinh nữ”, các gia hay dòng họ từ xưa và nay vẫn có tư tưởng coi trong việc sinh con trai, họ quan niệm “ nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” tức là con trai thì một là có, mười con gái thì vẫn là không và nếu không có cong trai để nối dõi thì bị xem là tuyệt tự và khi bố mẹ, ông bà chết đi sẽ không có người thờ cúng. Dẫn đến ở nước ta vẫn còn bất bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái về các điều kiện đảm bảo cuộc sống ổn định. Việc các gia đình coi trọng con trai dẫn đến khi sinh con ai cũng muốn sinh trẻ em trai. Điều đó vô hình chung đang dẫn đến sự mất cân bằng giới tính. Theo số liệu của cơ quan chức năng thì ở nước ta hiện nay, có nơi tỷ lệ sinh là 135 bé trai 100 bé gái. Điều này là bất lợi, đáng cảnh báo trong tương lai gần. Ngoài ra, còn do ở một số vùng nông thôn, dân tộc thiểu số có phong tục lạc hậu như: khi người phụ nữ sinh con thì tự người mẹ phải sinh một mình và chăm sóc con một mình. Dẫn đến, có sự bất bình đẳng về quyền sống của trẻ em ở các gia đình thành thị và gia đình ở nông thôn. Một phần khác, khi gia đình cha mẹ mâu thuẫn thường dẫn tới hành vi bạo lực đối với trẻ em. Khi đó, đa số trẻ em gái thường bị đánh đập hoặc bị chửi mắng xúc phạm danh dự. - Bình đẳng quyền học tập giữa trẻ em trai và trẻ em gái. Sự chênh lệch về tỉ lệ mù chữ của trẻ em trai so với trẻ em gái ngày càng giảm. Tuy nhiên sự bất bình đẳng giới ở nước ta vẫn tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, ở từng thời gian và không gian khác nhau. Cuộc sống của hàng triệu trẻ em gái vẫn còn bị phân biệt đối xử. Một số vùng khó khăn, gia đình đông con, trẻ em gái ít có cơ hội đi học hơn. Phổ biến nhất ở nước ta hiện nay là số đông vẫn còn tư tưởng trọng nam kinh nữ. Những hệ quả của bất bình đẳng giới trong giáo dục khi có những bất bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực của cuộc sống thì tất yếu dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Thực tế đã cho thấy điều này diễn ra ở Việt Nam, cho thấy trẻ em chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ chúng mù chữ hoặc không được đến trường dẫn đến chất lượng chăm sóc con cái thấp, khiến tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh. Những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường có hành vi chăm sóc con cái mình phù hợp hơn. Bất bình đẳng giới trong gia đình về quyền học tập của trẻ em làm giảm chất lượng nguồn nhân lực trung bình của xã hội. Thực vậy, nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và trẻ em gái có khả năng thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai và trẻ em gái có nghĩa là những trẻ em có tiềm năng thấp hơn, như thế chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế. Nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng là do chính trong các hộ gia đình đã định hình các mối quan hệ giới ngay từ đầu của quá trình xã hội hóa cá nhân và truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những định kiến giới của cha mẹ biểu hiện như: quan niệm cho rằng các trẻ em gái không cần phải học nhiều mà cần phải làm việc nội trợ giúp gia đình, con trai mới được đi học nhiều. Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục. Tình trạng nghèo đói của gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ, các nghiên cứu xã hội giáo dục cho thấy một tỷ lệ bỏ học rất đáng kể của những trẻ em xuất thân từ gia đình nghèo, cha mẹ thậm chí không biết chữ sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. - Trong việc thực hiện các công việc trong gia đình. Trong nhiều gia đình vẫn tồn tại sự phân công chênh lệch các công việc trong gia đình đối với trẻ em trai và trẻ em gái. Trẻ em gái phải bắt đầu làm việc khi còn ít tuổi trong khi trẻ em trai có nhiều cơ hội được đến trường học tập. Trẻ em gái thường phải làm các công việc vô hình, những hoạt động không được trả lương như nấu nướng, quét dọn và chăm sóc người thân trong gia đình. Những gia đình có mẹ đi làm thì con gái lớn trong gia đình phải ở nhà làm việc nội trợ và chăm sóc gia đình. Họ cũng phải thường xuyên làm các công việc không được trả lương như: làm việc cho doanh nghiệp của gia đình. So với trẻ em trai, trẻ em gái không được đến trường hoặc phải gánh chịu gánh nặng gấp ba-việc nhà, việc học tập ở trường và việc làm kinh tế. Ngày càng có nhiều trẻ em gái phải bắt đầu kiếm sống vì nhu cầu kinh tế để tồn tại. Công việc của trẻ em gái thường bấp bênh và chất lượng thấp. Trong các việc làm không công khai và không được kiểm soát như giúp việc gia đình thì trẻ em gái chiếm tỷ lệ nhiều hơn so với trẻ em trai làm cho nguy cơ bị bóc lột lao động. Nhiều trẻ em gái được trả công ít hơn so với trẻ em trai và nam giới khi làm cùng một loại công việc và trẻ em gái có quyền kiểm soát ít hơn số tiền mà họ nhận được. Nếu trẻ em gái tiêu tiền kiếm được thì chủ yếu là các chi tiêu trong gia đình của họ. - Về quyền được chăm sóc. Những gia đình mà chỉ có một người mẹ làm chủ gia đình thì trẻ em bị thiệt thòi hơn so với những đứa trẻ trong các gia đình khác, trẻ em gái đặc biệt có nguy cơ bị buôn bán. Trẻ em gái có thể bị bố mẹ bán đi hoặc cho không với hứa hẹn về một cuộc sống tốt đẹp hơn cho chúng. Những đứa trẻ này cuối cùng thường gánh chịu những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Ở nông thôn và một số vùng dân tộc thiểu số, người mẹ phải đi làm không có cơ hội chăm sóc con cái và cho con tới trường thì sẽ mang con theo tới nơi làm việc. Trẻ em gái sống trong các gia đình khó khăn sẽ ít được quan tâm hơn so với trẻ em trai. Bởi phần lớn trong họ vẫn tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ. Mặt khác, chế độ dinh dưỡng đối với trẻ em trai và trẻ em gái có sự chênh lệch. Nên có nhiều trẻ em bị suy dinh dưỡng, gầy gò. - Về thời gian nghỉ ngơi,vui chơi và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi. Trong phần lớn các gia đình trẻ em trai thường được ưu tiên không phải tham gia vào các hoạt động vô hình trong gia đình. Trẻ em trai có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi và tham gia các hoạt động giải trí khác nhiều hơn so với trẻ em gái. Ví dụ như: trẻ em gái khi đến trường học xong về nhà phải giúp bộ mẹ làm các công việc trong gia đình, trẻ em gái ở nông thôn học xong về phải giúp bố mẹ nấu cơm, thái rau, bèo nấu cám cho lợn ăn trong khi thời gian đó thì trẻ em trai được nghỉ ngơi, cùng bạn tham gia các hoạt động giải trí khác. Do đó, các gia đình không nên có sự chênh lệch về thời gian nghỉ ngơi giưa các trẻ. Cần cân đối thời gian hợp lý để cả trẻ em gái và trẻ em trai đều được nghỉ ngơi, tham gia vui chơi giải trí như nhau, đảm bảo phát triển trí tuệ và thể lực của trẻ. 3. Giải pháp bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình - Phân biệt đối xử về giới trong gia đình là vấn đề cần giải quyết để từ đó đạt được mục tiêu bình đẳng giới một cách thực chất. Vì gia đình là trường học đầu tiên của trẻ, mọi cử chỉ, hành vi của người lớn đều được trẻ em tiếp thu và hình thành trong nhân cách của trẻ. Những biểu hiện của bình đẳng giới ngày càng phổ biến trên nhiều lĩnh vực và dần được nhận thức sâu sắc trong nhiều người dân. Tuy nhiên, không thể phủ nhận trên thế giới và đặc biệt ở Việt Nam hiện còn nhiều quan điểm bảo thủ, ủng hộ cho sự phân biệt giới. Định kiến giới được hình thành từ rất lâu và nó ăn sâu vào trong quan niệm của mọi người. Định kiến giới là sự đề cao hay tuyệt đối hóa các đặc điểm và tính chất, vai trò của phụ nữ hoặc nam giới thường không đúng và hạn chế cá nhân thực hiện những việc mà người đó có khả năng làm. Ví dụ như ở Việt Nam hiện nay trong gia đình trẻ em trai được ưu tiên và tạo mọi điều kiện còn trẻ em nữ không được quan tâm mà thế nào cũng được… Vì lẽ đó xóa bỏ định kiến giới phải là việc làm thường xuyên, bền bỉ, rộng khắp. - Để thực hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình cần tăng cường tuyên truyền giáo dục các vấn đề giới, bình đẳng giới trong gia đình được quy định trong các chủ trương, chính sách, Pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đặt ra. Từ cơ sở đó mỗi người ý thức tốt về vấn đề bình đẳng
Luận văn liên quan