Đề tài Vấn đề con người - Nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới

Hiện nay nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH, đây là một thời kì tất yếu trong quá trình tiến lên CNXH của các nước XHCN nói chung trong đó có Việt Nam. Nhìn chung thời kì quá độ ở các nước XHCN đều đi từ CNTB lên CNXH còn ở Việt Nam và một số ít các nước khác thời kì quá độ lại là quá độ tiến thẳng lên CNXH và bỏ qua chế độ TBCN. Chính vì vậy cơ sở vật chất kỹ thuật của ta còn rất yếu kém. Do đó toàn Đảng toàn dân ta trong những năm qua đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những hoàn cảnh riêng của nước mình cũng như nhận ra được những bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu ta đã kịp thời có những chuyển đổi trong định hướng và hoạt động. Từ Đại hội VI của Đảng ( 1986) ta đã có những thay đổi kịp thời về việc chuyển đổi nền kinh tế. Phát huy tinh thần của đại hội VI đến đại hội VII, VIII, IX ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế mới – kinh tế thị trường có sự quản lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN.

doc26 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề con người - Nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Vấn đề con người - Nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới --------------------------- A. Giới thiệu đề tàI Hiện nay nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH, đây là một thời kì tất yếu trong quá trình tiến lên CNXH của các nước XHCN nói chung trong đó có Việt Nam. Nhìn chung thời kì quá độ ở các nước XHCN đều đi từ CNTB lên CNXH còn ở Việt Nam và một số ít các nước khác thời kì quá độ lại là quá độ tiến thẳng lên CNXH và bỏ qua chế độ TBCN. Chính vì vậy cơ sở vật chất kỹ thuật của ta còn rất yếu kém. Do đó toàn Đảng toàn dân ta trong những năm qua đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với những hoàn cảnh riêng của nước mình cũng như nhận ra được những bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu ta đã kịp thời có những chuyển đổi trong định hướng và hoạt động. Từ Đại hội VI của Đảng ( 1986) ta đã có những thay đổi kịp thời về việc chuyển đổi nền kinh tế. Phát huy tinh thần của đại hội VI đến đại hội VII, VIII, IX ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế mới – kinh tế thị trường có sự quản lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN. Quá trình đổi mới đó nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Vì vậy, con người chính là mục tiêu cho sự đổi mới đó và cũng là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Con người có tác động rất lớn đối với sự phát triển của đất nước. Mỗi chính sách kinh tế – xã hội đều nhằm phục vụ lợi ích của con người. Đã không ít sách, không ít bài báo bàn về vấn đề con người trên các phương diện khác nhau. Đề tài về con người có thể nói là không phải mới song những vấn đề khai thác về đề tài này trên các lĩnh vực qua từng giai đoạn luôn luôn là mới mẻ. Bởi lẽ cùng với thời gian con người ngày càng phát huy được vai trò của mình với tư cách là người chủ xã hội. Nghiên cứu về con người có rất nhiều mặt, nhiều vấn đề và do sự phát triển không ngừng của con người thì mỗi vấn đề luôn luôn là sự mới mẻ và quan trọng, cần thiết đối với sự phát triển của kinh tế – xã hội của nước ta. Trong giới hạn bài viết này, xin được nghiên cứu con người và nguồn lực con người trên các phương diện : + Truyền thống con người Việt Nam hiện nay + Nhân cách con người Việt Nam hiện nay + Nguồn lực con người. Trên cơ sở nghiên cứu con người trên những mặt này ta thấy được vai trò to lớn đối với công cuộc xây dựng đổi mới nền kinh tế đất nước theo hướng mới B nội dung chính I. Cơ sở của việc nghiên cứu : Cơ sở lý luận ( Triết học Mác – Lênin ) a, Bản chất con người : Cùng với thời gian, với lịch sử phát triển của nhân loại đã có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề con người. Đứng trên các lập trường khác nhau người ta có những quan điểm khác nhau về vấn đề này. -Phần lớn các tôn giáo đều cho rằng con người do thần thánh, thượng đế sinh ra, cuộc sống của họ do đấng tối cao sắp đặt, an bài. Con người là sự kết hợp giữa linh hồn và thể xác. Thể xác có thể mất đi nhưng linh hồn còn lại mãi mãi. Người ta phải chăm lo phần linh hồn của mình vì cho rằng linh hồn là phần cao quý của con người còn thể xác là phần thấp hèn. -Các trào lưu triết học duy tâm trong đó đặc biệt là duy tâm khách quan tuy không trực tiết giải thích nguồn gốc bản chất của con người từ trời, thần thánh sinh ra nhưng các giải thích cũng không kém phần bí hiểm. Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối tự tha hóa thành tự nhiên, thành con người. - Đến quan niệm duy vật trước Mac mà tiêu biểu là Phoiơbắc ông đã tiến được một bước đáng kể về nhận thức con người. Ông khẳng định rằng ý thức cũng như tư duy của con người chỉ là sản phẩm của khí quan vật chất nhục thể, tức là bộ óc, rằng vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần mà chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật chất. Song khi xem xét con người, ông lại tách con người ra khỏi cái mối quan hệ nhất định của họ, không đặt họ trong những điều kiện sinh hoạt nhất định của họ những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đúng như đang tồn tại. Ông chỉ coi con người là “đối tượng cảm tính” mà không phải là “ hoạt động cảm tính” tức là chỉ coi con người là một sinh vật thuần tuý. - Kế thừa những quan điểm trước đó và khi phê phán quan điểm của Phoiơbắc, Mác đã khái quát bản chất con người qua một câu nói nổi tiếng “ Phoiơbắc hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội ”. Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người, bản chất con người ông chỉ rõ hai mặt của con người là mặt sinh học và mặt xã hội. Nói cách khác con người là một sinh vật xã hội. a1. Bản chất sinh học của con người : Mác đã xem xét con nhười với tư cách là những cá nhân sống. Mác viết “ Vì vậy điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của giới tự nhiên ”. Trước hết Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất. Cũng như mọi động vật khác con người là một bộ phận của tự nhiên nên con người chịu sự chi phối của các quy luật khách quan trong đó có cả những quy luật sinh học ( đồng hoá - dị hóa ; biến dị - di truyền ; tương quan giữa cơ thể và môi trường...). Và cùng với các điều kiện khách quan đã tạo nên nhu cầu sinh học của con người như ăn, ngủ, giao tiếp, nhận thức, duy trì nòi giống để duy trì sự tồn tại của con người. Để thực hiện được những nhu cầu đó thì cũng như bao loài vật khác con người cũng phải đấu tranh. Những nhu cầu đó của con người đòi hỏi phải được đáp ứng tạo nên lợi ích cho con người từ đó định ra mục đích và hướng dẫn hoạt động của con người. Tuy nhiên Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng : cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học là bản năng sinh vật của con người. Con người có đầy đủ các đặc trưng của sinh vật tuy nhiên cũng lại có nhiều điểm phân biết với các sinh vật khác. Trước Mác cũng đã có nhiều nhà tư tưởng lớn đã có những tiêu chí khác nhau phân biệt giữa con người với các động vật khác như : con người khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao động ( Phrankim) Arixtốt đã gọi con người là “ một động vật có tính xã hội ”,Pascal thì nhấn mạnh đặc điểm của con người và sức mạnh của con người là ở chỗ con người biết suy nghĩ. Các nhận định đó đều đúng khi nêu lên một khía cạnh nào đó của con người tuy nhiên lại phiến diện vì không nói kên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Mác và Ăngghen đã phân tích vai trò của lao động sản xuất ở con người “ Bản thân con người bắt đầu bằng sự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là môt bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định ”. Bên cạnh đó việc đáp ứng nhu cầu sinh học của con người diễn ra trong môi trường xã hội và diễn ra theo phương thức người ( các QHXH đã quy định việc lựa chọn trong tổng thể các nhu cầu đó để đáp ứng ), phương thức đáp ứng nhu cầu sinh học của con người đã mang tính chất xã hội. Như vậy tuy là một bộ phận của tự nhiên nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con người hoàn toàn khác con vật. Mác nói “ con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên ”. Như vậy chính đi từ nhu cầu con người đã có những hoạt động để tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Và ta cũng thấy được rằng bản chất sinh học sẽ là nền tảng điều kiện tiền đề cho việc thực hiện bản chất xã hội của con người. Kết luận: Như vậy là một mặt của bản chất con người cần phải tôn trọng và tạo điều kiện đáp ứng thực hiện quyền con người ( sống, lao động...) a2. Bản chất xã hội của con người Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội - Con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội. Con người tự tạo nên các mối quan hệ giữa người với người mà quan hệ đầu tiên và cơ bản nhất là QHSX. Vậy con người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất con người không thể tách khỏi xã hội. Hoạt động sản xuất của con người là để phục vụ cho con người và cho toàn bộ xã hội. Tính xã hội của con người còn thể hiện ở các hoạt động và giao tiếp xã hội. Con người luôn có nhu cầu trao đổi giao tiếp điều đó được thực hiện bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy và tư duy cũng chính là điểm phân biệt giữa con người và con vật. Tư duy của con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội mà trước hết là trong hoạt động lao động sản xuất. Như vậy từ quan hệ sản xuất đã hình thành nên các quan hệ khác. Do đó con người là chủ thể của xã hội, con người tạo nên xã hội. Con người là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội, con người chịu sự chi phối của các quan hệ xã hội sống và hoạt động theo các quy định của xã hội. Thực vậy vì là một bộ phận của xã hội cũng như là một bộ phận của tự nhiên con người không tách khỏi được xã hội. Và do mỗi chế độ xã hội khác nhau sẽ định ra những yêu cầu riêng đối với con người. Như trong chế độ phong kiến và trong XHCN hoàn toàn có những yêu cầu rất khác nhau về con người như quan niệm về công – dung – ngôn – hạnh của người phụ nữ ngày nay không còn giống như xưa nữa mà đã có thay đổi cho phù hợp. Từ đó con người có các nhu cầu xã hội được hình thành và đáp ứng trên nền tảng đáp ứng các nhu cầu sinh học. Các nhu cầu xã hội là các nhu cầu hoạt động xã hội trong đó chứa đựng nhu cầu tự khẳng định và nhu cầu tự do. Như vậy các nhu cầu xã hôi của con người là xuất phát từ nhu cầu sinh học. Mặt xã hội của con người còn thể hiện ở bản năng xã hội - đó chính là ý thức. Xuất phát từ bản năng sinh học trong môi trường xã hội bản năng đó đã trở thành ý thức. Điều đó giúp thoả mãn nhu cầu của con người về nhận thức thế giới xung quanh. Kết luận: Là mặt thứ hai của bản chất con người nên cũng cần tôn trọng bản chất xã hội của con người và thực hiện các quyền lợi xã hội của con người. a3. Mối quan hệ giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội Từ những phân tích trên ta có thể khẳng định rằng giữa bản chất xã hội và bản chất sinh học của con người là một sự thống nhất không tách rời. Mặt sinh học và mặt xã hội luôn gắn bó với nhau. Chính mặt sinh học đã thôi thúc con người hành động để thể hiện được mặt xã hội của mình. Lao động xã hội quyết định đời sống của con người nên bản năng sinh vật được thu hút và hội nhập vào bản năng lao động xã hội, cái bản năng xã hội đặc thù của con người. Như vậy khi nghiên cứu về bản chất con người cần nghiên cứu ở hai mặt tự nhiên và xã hội, cần phải đặt con người trong các hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể để nghiên cứu. b. Nguồn lực con người : Con người sáng tạo ra lịch sử của mình Con người sáng tạo ra lịch sử của mình nhưng con người ở đây là một vào cá nhân hay là quần chúng nhân dân lao động. _ Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối cao, là do “ mệnh trời “, ý chí đó được cá nhân thực hiện. _ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là lực lượng tiêu cực,là “ phương tiện” mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình. _ Những nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào thượng đế, thần linh nhưng lại cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo đức, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu. _ Cũng có những nhà tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân nhưng không nhận thức được một cách khoa học vai trò đó. Có người đề cao vai trò của quần chúng nhân dân nhưng lại phủ nhân hoàn toàn vai trò của cá nhân đặc biệt. _ Chủ nghĩa Mac- Lênin đã chứng minh môt cách khoa học vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò cá nhân và vai trò quần chúng trong sự phát triển xã hội. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử. Vai trò của quần chúng nhân dân thể hiện ở các mặt : *Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội Muốn tồn tại thì con người phải được đáp ứng các nhu cầu ăn, mặc, ở... muốn vậy họ phải không ngừng sản xuất vì sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Lực lượng sản xuất dẫn tới sự thay đổi về mặt phương thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Quá trình sản xuất là của toàn xã hội. Thực tiễn sản xuất của loài người của quần chúng nhân dân là cơ sở và động lực của sự phát triển khoa học kĩ thuật và khoa học kĩ thuật lại làm cho năng suất lao động nâng cao không ngừng. Nếu tài năng trí tuệ năng suất lao động của đông đảo những người lao đông không được phát huy, nâng có thì nền sản xuất sẽ giảm sút, kém hiệu quả. * Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu hiện thành mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cách mạng xã hội sẽ xảy ra khi QHXH không còn phù hợp với LLSX để xoá bỏ QHSX cũ thiết lập QHSX mới phù hợp với sự phát triển của LLSX mới. Quần chúng nhân dân luôn là lực lượng cơ bản và quyết định thắng lợi của cách mạng. Đó thực sự là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải của một vài cá nhân. * Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản xuất tinh thần. Hồ Chí Minh nhận định “ Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa...Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”. Vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự phát triển lịch sử, vai trò đó được phát huy cao độ một khi đông đảo quần chúng thoát khỏi sự trói buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, những tập quán còn lạc hậu và được giác ngộ những tư tưởng khoa học và cách mạng. Theo quan điểm Mác- Lênin vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau trái lại có quan hệ khăng khít với nhau. Cá nhân ưu tú lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm là con đẻ của phong trào quần chúng nên sức mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lênin viết “ Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị những đại biểu tiên phong cúa đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào ”. Chủ nghĩa Mac- Lênin đánh giá rất cao vai trò của cá nhân anh hùng của lãnh tụ trong sự phất triển của lịch sử nhưng kiên quyết chống lại tề sùng bái cá nhân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac- Lênin luôn coi sùng bái cá nhân là hiện tượng hoàn toàn xa lạ với hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. 2, Cơ sở thực tế: Nước ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH trong thời kì này giữa cái cũ và cái mới còn chưa có sự phân chia rõ ràng. Những tàn dư của chế độ xã hội cũ vẫn còn và những quan hệ sản xuất mới cũng bước đầu được hình thành. Cả nước đang tiến hành quá trình xây dựng nền kinh tế mới kinh tế thị trường có sự quản lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế mới khi mà vai trò của con người có đủ mọi khả năng điều kiện để phát triển, để phát huy tài năng của mình thì vấn để con người càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Với nền kinh tế nhiều thành phần con người sẽ tham gia vào các môi trường khác nhau. Vấn đề là cùng với sự thay đổi đó thì con người sẽ thay đổi ra sao để phù hợp với nó. Con người là mục tiêu đồng thời cũng là động lực của sự phát triển KT- XH. Sự phát triển của xã hội đều nhằm phục vụ lợi ích của con người. Là chủ thể sáng tạo nên lịch sử con người đã thoả mãn các nhu cầu của mình bằng các hoạt động từ đó góp phần đưa xã hội đi lên. Tiềm năng phong phú đa dạng của xã hội loài người văn minh là nguồn tài nguyên vô tận, vô giá, quý báu nhất và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nên văn minh nhân loại đó chính là con người. Như vậy, mọi hoạt động kinh tế – xã hội đều phải bắt nguồn đều phải dựa trên nguồn lực con người và cũng vì con người mà phát triển. Trong cơ chế thị trường thì động lực con người và mục tiêu vì con người càng thể hiện rõ hơn, nền sản xuất mà hàng hoá sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu của con người, nền sản xuất trong đó có sự ứng dụng rộng rãi của các tiến bộ khoa học kĩ thuật thì nguồn lực con người đặc biệt là trí tuệ của mỗi con người càng trở nên quan trọng hơn. Trong điều kiện mới với các thành tựu được ứng dụng ngày càng nhiều trong các ngành, nghề trong nền sản xuất đòi hỏi trình độ lành nghề, khả năng thành thạo của con người, của người lao động ngày càng cao hơn. Khi mà hầu hết các công việc đều làm trên máy móc thì chỉ cần một sơ suất nhỏ của người công nhân đều khiển cũng có thể dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng. Có các phương tiện lao động tiên tiến mà không có đội ngũ lao động tương ứng về trình độ sử dụng thì hiệu quả sản xuất sẽ không cao. Do đó cần phải chú trọng vấn đề nâng cao trình độ người lao động. Bên cạnh đó thái độ của người lao động cũng có vai trò quan trọng. Người lao động có tận tình với công việc thì hiệu quả lao động mới cao và ngược lại. Do đó khi xem xét vấn đề con người cũng cần phải xem xét trên khía cạnh này. Trong một thời gian dài sau chiến tranh nước ta đã duy trì nền kinh tế bao cấp. Với nền kinh tế đó thì ta đã rơi vào tình trạng trì trệ sa sút. Đã có lúc ta lúng túng không biết cái nào là động lực thực sự nên đã không tập trung tác động đúng mục tiêu. Sự yếu kém đó đã kéo nước ta vào tình trạng vô cùng khó khăn cứ mãi tiếp tục sâu hơn của hố thất bại và kết quả là nền kinh tế kéo theo là đời sống xã hội của nhân dân rất yếu kém.Từ thực trạng đó tại Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam ta đã nhìn lại một chặng đường đã qua và xem xét suy nghĩ lại từ đó đã có những bước đi mới đầy táo bạo khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang cơ chế thì trường có sự quản lí của nhà nước. Cũng từ đó ta đã phải thừa nhận tầm quan trọng của động lực con người, vấn đề con người đã được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Từ sự thay đổi quan điểm đó của Đảng thì con người đã có nhiều cơ hội để phát huy vai trò của mình, phát huy tiềm năng to lớn của mình. II Thực trạng các vấn đề nghiên cứu : 1. Truyền thống con người Việt Nam. Nhận thức sâu sắc và định hướng đúng đắn việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống là tiền đề cơ bản để tạo dựng nên đạo đức lành mạnh của xã hội góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc phát huy mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của cơ chế thị trường. Ưu điểm – Thành công : * Tiếp tục kế thừa và phát huy các truyền thống dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Các giá trị đạo đức truyền thống là bộ phận cốt lõi trong các giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước từ bao đời nay. Chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc, là giá trị cao nhất trong hệ giá trị đạo đức của dân tộc, là tình cảm, tư tưởng lớn nhất của nhân dân ta. Lênin đã viết chủ nghĩa yêu nước là “... một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố qua hàng trăm năm, hàng ngàn năm của các tổ quốc biệt lập ”. Chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa sôvanh nước lớn.Yêu nước với mỗi người dân Việt Nam là đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, chăm lo xây dựng đất nước kiên quyết đấu tranh chống đô hộ và xâm lược bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Yêu nước là tiêu chuẩn cao nhất để xác định tính đúng đắn của hành vi cá nhân trong tương quan với lợi ích dân tộc. Lòng yêu nước là động lực tinh thần to lớn có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc. Yêu nước bao giờ cũng gắn liền với lòng yêu thương và quý trọng, tin tưởng ở sức mạnh của con người, nhất là người lao động. Thương yêu quý trọng, tin tưởng ở sức mạnh của con người là một nội dung chủ yếu của quan hệ đạo đức giữa người với người. Lòng thương người truyền thống của nhân dân ta mang nội dung hiện thực tích cực – vừa không khước từ đấu tranh chống lại những kẻ đi ngược với lợi